Thứ Hai, 15/07/2019 16:18
Phát triển đội ngũ công nhân trước yêu cầu mới
TCCSĐT - Dưới tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam đã có sự phát triển nhanh về số
lượng, đa dạng về cơ cấu ngành, nghề, chất lượng được nâng lên nhiều mặt, trình
độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, thái độ chính trị có nhiều tiến
bộ. Để đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng, khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam đã và sẽ tham gia nhiều hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, giai cấp công nhân
Việt Nam cần tiếp tục được phát triển mạnh mẽ, để thực sự là lực lượng tiên
phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
TCCSĐT - Dưới tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam đã có sự phát triển nhanh về số
lượng, đa dạng về cơ cấu ngành, nghề, chất lượng được nâng lên nhiều mặt, trình
độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, thái độ chính trị có nhiều tiến
bộ. Để đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng, khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần
thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam đã và sẽ tham gia nhiều hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, giai cấp công nhân
Việt Nam cần tiếp tục được phát triển mạnh mẽ, để thực sự là lực lượng tiên
phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tình hình giai cấp công nhân Việt Nam 10 năm qua
Nghị quyết số 20-NQ/TW, ngày 28-01-2008 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, đã chỉ rõ định hướng
cũng như trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc xây dựng giai cấp công
nhân thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, như là động lực
cho sự phát triển bền vững của đất nước: “chăm lo xây dựng giai cấp công nhân;
đảm bảo hài hòa lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động, Nhà nước và
toàn xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân,
quan tâm giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công
nhân”, “quan tâm xây dựng thế hệ công nhân trẻ có học vấn, chuyên môn và kỹ
năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc tế, có lập trường giai cấp và
bản lĩnh chính trị vững vàng, trở thành bộ phận nòng cốt của giai cấp công
nhân”. Đây là “trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và sự nỗ
lực vươn lên của bản thân mỗi người công nhân, sự tham gia đóng góp tích cực
của người sử dụng lao động; trong đó, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà
nước có vai trò quyết định, công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong
chăm lo xây dựng giai cấp công nhân”(1).
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa X, hiện nay, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên đang
làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân là 53,3 triệu người, tăng gần 7 triệu
người so với 10 năm trước đây. Cơ cấu lao động ở khu vực ngoài nhà nước và khu
vực nhà nước có sự thay đổi. Số lượng doanh nghiệp và công nhân lao động (CNLĐ)
ở khu vực ngoài nhà nước tăng nhanh (hiện có khoảng 7,8 triệu người), các số
liệu này giảm mạnh ở các doanh nghiệp nhà nước (khoảng gần 400 nghìn người so
với năm 2008). Ngành, nghề truyền thống dần thu hẹp, bên cạnh đó phát triển
nhiều ngành kinh tế mũi nhọn, đóng vai trò then chốt của nền kinh tế quốc dân,
làm gia tăng đội ngũ công nhân kỹ thuật bậc cao. Công nhân các ngành công
nghiệp chiếm 46,1%; ngành xây dựng chiếm 15%; ngành thương mại, dịch vụ chiếm
25,9%; ngành vận tải chiếm 4,7%, các ngành khác chiếm 8,3%(2).
Cả nước hiện có 325 khu công nghiệp (KCN), tập trung ở các tỉnh,
thành phố, khu vực kinh tế trọng điểm với trên 3 triệu CNLĐ. Độ tuổi bình quân
của công nhân trẻ, dưới 25 tuổi chiếm 43,4%, từ 26 - 35 tuổi chiếm 34,7%, từ 36
- 45 tuổi chiếm 14%. Tuổi nghề dưới 1 năm chiếm 6,9%, từ 1 năm - 5 năm chiếm
30,6%, từ 6 năm - 10 năm chiếm 16,4%, từ 11 năm - 15 năm chiếm 10,5%, 16 năm -
20 năm chiếm 16,8%, 21 năm - 25 năm chiếm 13,3%, trên 25 năm chiếm 5,5%(3). Quý
4 - 2018, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có bằng cấp/chứng chỉ là 22,22%, tăng
0,42 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Theo các cấp trình độ, tỷ lệ lao
động có trình độ đại học trở lên trong tổng số lực lượng lao động là 9,76%; cao
đẳng là 3,68%; trung cấp là 5,35% và sơ cấp nghề là 3,43%(4). Qua đó, có thể
thấy quy mô công nhân kỹ thuật cao ở nước ta còn nhỏ bé so với yêu cầu của quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Kinh nghiệm quốc tế chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn “cất cánh”
chuyển từ thay đổi về lượng sang thay đổi về chất thì ít nhất phải có một số
lượng nhất định người lao động chuyên môn kỹ thuật trình độ cao để dẫn dắt sự
phát triển(5). Ngày nay, mặc dù công nghệ hiện đại, hệ thống thiết bị tiên
tiến, nhưng CNLĐ vẫn là mắt xích quan trọng trong dây chuyền sản xuất để tạo ra
sản phẩm ngày càng nhiều và có chất lượng góp phần vào sự phát triển nhanh, bền
vững của doanh nghiệp, địa phương, đất nước. Nhìn vào cơ cấu GDP năm 2018 có
thể thấy sự đóng góp của các ngành, nghề kỹ thuật cao trong nền kinh tế. Theo
đó, GDP tăng 7,08%, là mức tăng cao nhất 10 năm qua; trong đó, khu vực nông,
lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,76%, đóng góp 8,7% vào mức tăng trưởng chung; khu
vực công nghiệp và xây dựng tăng 8,85%, đóng góp 48,6%; khu vực dịch vụ tăng
7,03%, đóng góp 42,7%(6).
Tập trung giải quyết các vấn đề bức xúc của giai cấp công nhân
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa X và 5 năm triển khai Kết luận số 79-KL/TW, ngày
25-12-2013 của Bộ Chính trị khóa XI, “về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết
số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Tiếp tục xây dựng giai
cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”,
nhiều vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân được tập trung giải
quyết, nhiều vấn đề đạt kết quả quan trọng: Tiền lương tối thiểu đáp ứng hơn
90% mức sống tối thiểu, thu nhập của người lao động được cải thiện đáng kể;
việc làm ổn định, tỷ lệ thất nghiệp giảm; chính sách an sinh xã hội cho người
lao động, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp được bổ
sung, hoàn thiện; điều kiện làm việc được cải thiện, nhiều giải pháp bảo đảm an
toàn, vệ sinh lao động được triển khai thực hiện tại các nhà máy, cơ sở sản
xuất; nhà ở, thiết chế văn hóa, nhà trẻ mẫu giáo, nơi vui chơi giải trí trong
các KCN được quan tâm đầu tư xây dựng… Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến
nay, Thủ tướng Chính phủ 4 lần gặp gỡ, đối thoại CNLĐ các tỉnh, thành phố khu
vực kinh tế trọng điểm miền Nam, miền Trung và các khu công nghiệp vùng Đồng
bằng sông Hồng; kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật. Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt Ðề án “Ðầu tư xây dựng các thiết chế của công đoàn tại
các khu công nghiệp, khu chế xuất”, theo Quyết định số 665-QĐ/TTg, ngày
12-5-2017, thể hiện sự quan tâm của Ðảng, Chính phủ đối với đời sống của CNLĐ
và là kim chỉ nam cho hoạt động của Công đoàn Việt Nam trong giai đoạn mới.
Tổ chức và hoạt động của Công đoàn Việt Nam đã có những bước tiến
mới, quan trọng, mang tính đột phá, quyết liệt trong đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đoàn viên;
trong thông tin, tuyên truyền, bồi dưỡng nâng cao hiểu biết chính trị, pháp
luật cho CNLĐ; nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của CNLĐ; phối hợp với các cấp, các
ngành chăm lo đời sống của CNLĐ; góp phần quan trọng trong giải quyết nhanh
chóng, kịp thời các “điểm nóng” về quan hệ lao động tại cơ sở. Triển khai đồng
bộ các biện pháp thúc đẩy việc chăm lo các lợi ích cho đoàn viên công đoàn,
người lao động, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa công nhân, người lao động và người
sử dụng lao động.
Nhằm nâng cao trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp, nâng cao năng
suất lao động cho CNLĐ, công đoàn phối hợp mở các lớp đào tạo nghề, học bổ túc
văn hóa; chương trình đại học vừa học vừa làm; hình thành quỹ học bổng Công
đoàn Việt Nam hỗ trợ học phí cho công nhân học tập; biểu dương, tôn vinh điển
hình vượt khó, thành đạt; đào tạo bồi dưỡng cán bộ công đoàn. Công đoàn cơ sở
cùng với lãnh đạo doanh nghiệp, các bộ phận chuyên môn tổ chức dạy nghề cho
công nhân đang ngày càng trở nên phổ biến và có tác dụng tích cực nâng cao
trình độ tay nghề, chất lượng lao động. Không ít tập đoàn, doanh nghiệp đã coi
trọng việc tiếp thu công nghệ tiên tiến của những nước phát triển, cử những
công nhân có tay nghề giỏi đi tu nghiệp ở nước ngoài.
Nghị quyết số 07c - NQ/BCH, ngày 25-02-2016 của
Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khóa XI, về “Chất lượng
bữa ăn ca của người lao động”, đã thực sự tác động mạnh mẽ đến từng đoàn
viên, người lao động, với việc chăm lo cải thiện bữa ăn giữa ca, thực hiện an
toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ sức khỏe. Chương trình phúc lợi cho đoàn viên
công đoàn đã tạo bước chuyển biến quan trọng trong tư duy về hoạt động công
đoàn theo hướng mang lại lợi ích thiết thực nhiều hơn cho người lao động là
đoàn viên công đoàn. Chương trình “Mái ấm Công đoàn” đã hiện thực hóa giấc mơ
“an cư” cho hàng chục nghìn gia đình đoàn viên, người lao động nghèo. Chương
trình “Tết Sum vầy”, “Tháng Công nhân” hằng năm được triển khai sâu rộng trong
hệ thống công đoàn, có hiệu ứng tích cực. Việc nâng cao chất lượng thương
lượng, ký kết và thực hiện thỏa ước lao động tập thể, đối thoại định kỳ trong
các doanh nghiệp được các cấp công đoàn chú trọng thực hiện. Nội dung thỏa ước
tập trung vào những cam kết có lợi hơn cho người lao động... Thông qua đối
thoại, nhiều vấn đề vướng mắc, bức xúc của người lao động được giải quyết kịp
thời; nhiều khó khăn của doanh nghiệp cũng được người lao động chia sẻ… Phát
động nhiều phong trào thi đua, tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao, nâng
cao đời sống văn hóa, tinh thần, tạo động lực cho công nhân, viên chức, người
lao động tiếp tục thi đua hăng say lao động sản xuất; thu hút, tập hợp đông đảo
đoàn viên, hội viên tích cực tham gia các hoạt động của tổ chức đoàn thể.
Tổ chức bộ máy công đoàn các cấp được kịp thời kiện toàn, củng cố.
10 năm qua, có gần 548 nghìn đoàn viên công đoàn ưu tú đã được công đoàn cơ sở
giới thiệu cho Đảng xem xét, kết nạp; khoảng 362 nghìn người được kết nạp vào
Đảng, trong đó CNLĐ trực tiếp sản xuất là 116 nghìn người.
Tuy nhiên, bên cạnh những thay đổi tích cực, giai cấp công nhân
nước ta cũng có những biến đổi tiêu cực, được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ
rõ tại Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XII, ngày 25-9-2018, đó là: “một bộ
phận công nhân, người lao động có biểu hiện phai nhạt về chính trị, chỉ lo
nhiều đến những vấn đề lợi ích kinh tế, đời sống cụ thể trước mắt, ít quan tâm
đến những vấn đề cơ bản, lâu dài, có tính chiến lược, như ý thức giác ngộ giai
cấp, bản lĩnh chính trị, vai trò, sứ mệnh lịch sử, trách nhiệm của giai cấp
công nhân...; một số công nhân bị các thế lực xấu, thù địch tác động, lôi kéo,
kích động, đã có những việc làm sai trái, gây mất ổn định an ninh, trật tự, an
toàn xã hội. Chất lượng đội ngũ công nhân nước ta đang có những dấu hiệu hụt
hẫng và bất cập. Xu hướng phân hóa trong đội ngũ công nhân làm cho nhiệm vụ tập
hợp lực lượng và nâng cao vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với toàn
thể xã hội trở nên khó khăn”(7). Nhiều vấn đề bức xúc, cấp bách của công nhân
chưa giải quyết được triệt để. Vấn đề bảo đảm việc làm của công nhân còn nhiều khó
khăn, cường độ làm việc cao, tiền lương, thu nhập chưa tương xứng. Công tác xây
dựng, củng cố, phát triển tổ chức đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp, nhất là
khu vực ngoài nhà nước còn nhiều hạn chế. Công tác bồi dưỡng, phát triển đảng
viên trong công nhân chưa có sự chuyển biến tích cực; tỷ lệ đảng viên, cán bộ
ưu tú xuất thân từ công nhân và tỷ lệ cán bộ công đoàn vào thường vụ cấp ủy ở
những nơi có nhiều khu công nghiệp, đông công nhân còn thấp.
Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh trong giai đoạn
hiện nay
Thế giới đang bước vào cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sẽ
có rất nhiều đổi mới, nhưng bản chất của nó vẫn là sản xuất công nghiệp và hiển
nhiên gắn liền với công nhân và công nghệ. Không ai khác, chính giai cấp công
nhân Việt Nam sẽ đi đầu trong Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Sự lớn mạnh của
giai cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc
đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Theo đó, xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh cần tập trung triển khai quyết
liệt và có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, tiếp tục quán
triệt sâu sắc, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với việc chăm lo, bồi dưỡng,
giáo dục và phát huy vai trò, tiềm năng của giai cấp công nhân Việt Nam. Tập
trung thể chế hóa, cụ thể hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng về giai cấp
công nhân được thể hiện trong Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X.
Hai là, nâng cao bản lĩnh
chính trị, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân. Tổ chức tốt
các hoạt động tuyên truyền, phổ biến học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước sát hợp với
đối tượng người lao động, trọng tâm là nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò
giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng hiện
nay; về năng lực tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp, có việc làm bền vững, an toàn,
luôn gắn kết chặt chẽ với tổ chức công đoàn. Phát triển đội ngũ tuyên truyền
viên tại công đoàn cơ sở khu vực ngoài nhà nước có đông đoàn viên công đoàn;
làm tốt công tác cung cấp thông tin, hoàn thiện phương thức hoạt động của lực
lượng này.
Tuyên truyền, vận động người lao động tích cực học tập, nâng cao
trình độ, kỹ năng nghề nghiệp để thích ứng với điều kiện lao động trong bối
cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Xây dựng cơ chế phối hợp tổ
chức cho cán bộ, đoàn viên ưu tú khu vực ngoài nhà nước học tập nâng cao trình
độ chính trị.
Ba là, nâng cao chất
lượng cuộc sống, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng, bảo đảm
việc làm, tiền lương, thu nhập của công nhân. Chính phủ cần sớm xây dựng, ban
hành các chính sách, biện pháp cụ thể nhằm củng cố, nâng cao vị thế và hiệu quả
hoạt động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và quản lý có hiệu quả sự ra đời
và hoạt động của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tạo điều kiện cho doanh
nghiệp kinh doanh ổn định, thành công. Tiếp tục rà soát Luật Công đoàn năm 2012
để chủ động thực hiện hoặc kiến nghị với Chính phủ sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
với các tiêu chuẩn, cam kết, công ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia.
Tư vấn, hỗ trợ công đoàn cơ sở trong quá trình tổ chức đối thoại
tại nơi làm việc, chú trọng quy trình, lực lượng và hình thức đối thoại đột
xuất liên quan những vấn đề bức xúc, cấp bách của người lao động. Tập trung tổ
chức các hoạt động tư vấn pháp luật tại nơi ở, nơi làm việc của đoàn viên,
người lao động. Các cấp công đoàn cần chủ động tham gia giải quyết ngay từ đầu
các vướng mắc, bức xúc ở cơ sở, thực hiện quyền và trách nhiệm tham gia tố tụng
bảo vệ quyền lợi của đoàn viên, người lao động tại tòa án theo quy định.
Nghiên cứu, khảo sát, dự báo tình hình tác động đến việc làm của
người lao động. Cập nhật, cung cấp thông tin về việc làm; tham gia xây dựng cơ
chế hỗ trợ đoàn viên tìm kiếm việc làm mới, nhất là lao động nữ để giúp người
lao động bị mất việc làm do các doanh nghiệp không đứng vững được trong quá
trình cạnh tranh. Thành lập Chương trình học bổng toàn phần, bán phần dành cho
công nhân học tập nâng cao trình độ nghề nghiệp.
Tập trung cải thiện các nhu cầu đời sống thiết yếu của công nhân,
viên chức, lao động. Hoàn thiện, nâng cao hiệu quả các mô hình chăm lo lợi ích
thiết thực cho đoàn viên công đoàn. Nghiên cứu xác định các trường hợp khó khăn
bất khả kháng của đoàn viên công đoàn, người lao động và hình thành cơ chế để
hỗ trợ kịp thời.
Bốn là, đổi mới tổ chức và hoạt động của Công đoàn
Việt Nam trong giai đoạn mới; tập trung nguồn lực tài chính phục vụ nhiệm vụ
cấp thiết của tổ chức công đoàn. Nghiên cứu, sắp xếp, hoàn thiện mô hình tổ
chức, bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của công đoàn các cấp theo hướng rõ nhiệm vụ,
rõ quyền hạn của mỗi cấp công đoàn, bảo đảm tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả;
nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổ chức công đoàn ngành trung ương, công đoàn
cấp trên trực tiếp cơ sở. Thực hiện thí điểm mô hình tổ chức công đoàn trong
các tập đoàn kinh tế tư nhân, tổng công ty nhà nước thoái vốn, các doanh nghiệp
có cùng chủ sử dụng lao động; mô hình công đoàn cơ sở ghép nhiều doanh nghiệp,
cơ quan, đơn vị theo ngành, nghề trên cùng địa bàn; mô hình tập hợp người lao
động là người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Thành lập tổ chức cơ sở của
công đoàn ở 100% doanh nghiệp có 25 CNLĐ trở lên. Xây dựng đội ngũ cán bộ công
đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở có đủ năng lực hỗ trợ cán bộ công đoàn cơ sở
trong việc thương lượng tập thể, đối thoại, tư vấn pháp luật, giải quyết tranh
chấp lao động, phát triển đoàn viên. Bố trí cán bộ công đoàn chuyên trách ở
công đoàn cơ sở khu vực ngoài nhà nước có đông đoàn viên công đoàn.
Triển khai Đề án xây dựng nguồn lực đủ mạnh của tổ chức công đoàn
để thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn mới; xây dựng, phát huy hiệu quả thiết
chế công đoàn ở các khu công nghiệp, khu chế xuất trở thành biểu tượng hành
động nâng cao đời sống công nhân.
Để thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm nêu
trên, Bộ Chính trị, Ban Bí thư cần đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết số
20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, đồng thời đề ra các nhiệm
vụ, giải pháp thực hiện các chủ trương, quan điểm của Đảng về xây dựng giai cấp
công nhân trong văn kiện trình đại hội đảng các cấp và Đại hội XIII của Đảng;
bên cạnh đó, bổ sung nội dung: có tỷ lệ thích hợp cán bộ công đoàn vào thường
vụ cấp ủy các cấp ở những nơi có nhiều khu công nghiệp, đông công nhân. Xây
dựng chiến lược phát triển giai cấp công nhân, nhất là đội ngũ công nhân, lao
động thực hành giỏi, tay nghề cao để đáp ứng nhu cầu lao động trong xu thế vận
hành của Cách mạng công nghệ 4.0, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia và hội nhập quốc tế./.
------------------------------------------------
(1) Văn kiện Hội
nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2008, tr. 48-49
(2) Niên giám
thống kê 2016, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2017, tr. 279-284
(3) Báo cáo tổng
kết 10 năm thực hiện Luật Bình đẳng giới và Báo cáo 10 năm triển khai thực hiện
Nghị quyết số 11/NQ-TW, về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước (Báo cáo của Ban Nữ công Tổng Liên đoàn lao động
Việt Nam năm 2017)
(4) Thông cáo báo chí
tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2018
(5) Báo cáo khoa học Đề
tài "Nguồn nhân lực và nhân tài cho phát triển xã hội và quản lý
phát triển xã hội ở Việt nam trong tiến trình đổi mới", mã số
KX.02.24/06-10 do GS.TS Nguyễn Ngọc Phú làm chủ nhiệm, Hà Nội 2010, tr.99-06;
ILO, Qualification Frameworks: Implementation and Impact- Background case study
on Lithuania, ILO 2010, p.2; OECD: Developing highly skilled workers: Review of
Canada, OECD, France 2004, p.6-9
(6) Tổng cục Thống
kê, Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2018
(7) Tạp chí Cộng
sản, số 912 (10-2018), tr. 9
TS. Bùi Văn Cường
Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
(Nguồn
http://www.tapchicongsan.org.vn/home/xay-dung-dang/2019/54888/phat-trien-doi-ngu-cong-nhan-truoc-yeu-cau-moi.aspx)
|