MỪNG ĐẤT NƯỚC ĐỔI MỚI, MỪNG ĐẢNG QUANG VINH, MỪNG XUÂN GIÁP THÌN!

HỖ TRỢ TRỰC TUYẾN
(0290) 3 8311431

Thống kê truy cập
  • Đang online: 4
  • Hôm nay: 176
  • Trong tuần: 2 949
  • Tất cả: 813017
Lịch sử công đoàn tỉnh Cà Mau

CHƯƠNG I
TÌNH HÌNH KINH TẾ, XÃ HỘI VÀ SỰ HÌNH THÀNH PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ NHÂN DÂN LAO ĐỘNG CỦA TỈNH

I. TÌNH HÌNH KINH TẾ, XÃ HỘI

Khu vực Cà Mau ngày xưa thuộc tỉnh Bạc Liêu(1), là vùng đất mới, kinh tế trù phú; có hai cánh rừng đước và tràm, và có nhiều kinh rạch chằng chịch; khí hậu điều hòa, tạo môi trường phát triển kinh tế đa dạng. Đặc biệt là khai thác thủy hải sản và cây, gỗ (than đước). Cho nên kẻ thù tập trung khai thác nguồn tài nguyên quí giá đồng bằng sông Cửu Long, nhất là ở Cà Mau.

Vào những năm đầu của thế kỷ XX kinh tế ở khu vực Cà Mau tập trung trồng lúa là chính cùng với hoa màu, đặc biệt là lâm nghiệp và thuỷ sản. Đất đai lúc bấy giờ ở Cà Mau đều tập trung trong tay bọn địa chủ, làm cho đời sống người nông dân khổ cực phải đi ở đợ, làm thuê (tá điền) cho bọn điền chủ và địa chủ bản xứ. Như:Arborati chiếm nhiều ruộng đất ở Giá Rai, Patisti, Duillemet, Campro ở khu vực Cà Mau.

Còn ở khu vực ven biển thì xuất hiện những chủ bao, có nghĩa là bọn chúng bỏ tiền ra bao mua các phương tiện đánh bắt để làm chủ, còn người đi đánh bắt không có tiền phải thuê những phương tiện. Đồng thời làm ra sản phẩm phải bán hết cho chủ, dưới giá chủ tự định đoạt (rẻ mạt). Từ đó người dân lao động làm như không công cho bọn chủ bao. Vì thế cuộc sống của người lao động làm thuê cơ cực lại càng cơ cực hơn.vai

Trên lĩnh vực khai thác lâm sản ở khu vực rừng Đước, bọn thực dân Pháp và điền chủ đã tiến hành tập trung khai thác gỗ, đước để hầm than chở về bán cho bọn tư sản ở Sài Gòn-Chợ Lớn, mỗi năm hàng vạn tấn (chuyên chở theo đường sông). Từ đó các chủ lò than giàu có đứng ra thuê lực lượng lao động, trả tiền rẻ mạt (0,5 đồng một ngày), thậm chí tiền công người lao động không đủ để đóng thuế thân. Từ đó mâu thuẫn diễn ra ngày càng gây gắt giữa người lao động và bọn chủ. Có nghĩa là mâu thuẫn giữa người bị bóc lột và người bóc lột diễn ra ngày càng sâu sắc trên vùng đất cuối cùng của Tổ quốc.

Trước hết, là diễn ra sự mâu thuẫn giữa người nông dân với điền chủ, địa chủ, với bọn thực dân Pháp. Từ đó diễn ra nhiều cuộc đấu tranh lẻ tẻ của nông dân chống lại những hành động đánh đập tá điền. Ngày càng gây gắt giữa người bóc lột và người bị bóc lột. Trên lĩnh vực thủy hải sản và lâm sản, cho nên những mâu thuẫn đó diễn ra suốt trong quá trình làm thuê không công cho các chủ bao và chủ lò than ở khu vực Năm Căn, Rạch Gốc. Theo tài liệu của Pháp để lại có đề cập: “là sự thuê công ở khu vực mới rất thấp... Họ rất cần làm”. Người nông dân Cà Mau lúc bấy giờ làm ruộng mà không có đất; người làm công không có sở; người được làm cũng như không có tiền. Bởi vì tiền công người lao động rẻ mạt lại còn bị đòn roi, hâm dọa của bọn bóc lột (chủ cả). Sức lao động ở đây lúc bấy giờ rất rẻ mạt, bọn chúng trả chỉ đủ cho người sống “cầm hơi” để làm thuê cho chúng. Vì thế những mâu thuẫn đó ngày càng chất chồng lên diễn ra gay gắt trong nhận thức của người lao động làm thuê trên mảnh đất này. Cho nên họ có ý thức bắt đầu liên kết nhau bằng những hình thức đấu tranh lẻ tẻ phản đối sự bất công và đòi cho thêm những quyền lợi chính đáng như ở khu vực nông nghiệp bớt thuế thân và lấy lúa tô chừa chút ít để sống, ở khu vực thuỷ hải sản và lâm sản bà con đòi trả tiền công tăng lên .v.v... chính là đòi quyền sống của con người.

Vào năm 1924 -1925, những người lao động ở khu vực Cà Mau, nhất là nơi bọn điền chủ và địa chủ nắm thì sự đấu tranh của người dân lao động đã nổi dậy lẻ tẻ chống lại những bọn ác bá. Tiêu biểu là sự kiện ở ấp Rạch Mũi đã diễn ra quyết liệt giữa người lao động với bọn điền chủ Patatti. Sự kiện này diễn ra cuối năm 1925 đầu năm 1926, có nghĩa là bọn Patatti cùng những tên hương quản kéo quân đến phá đập đưa nước mặn vào để lấy cớ đó (làm ruộng không được) để chúng lấy hết đất nông dân chỉ còn tay trắng, trở lại làm thuê cho chúng với tiền rẻ mạt. Sự kiện này phản ánh mâu thuẫn gay gắt giữa người lao động với bọn bóc lột tại vùng đất Cà Mau.

Trong những năm 1926, 1927 và 1928, bọn thực dân Pháp kết hợp với bọn tay sai tại chỗ đã thực hiện những chính sách ngu dân và khai thác kinh tế ở Cà Mau. Thực hiện đủ các thuế má để bóc lột người dân như làm một ngày chỉ trả một đồng hai; đất thì bọn chúng lấy hết phải đi làm thuê; bệnh tật không có tiền mua thuốc; lúc chết không có đất chôn phải mang trầu cau đến lại lục bọn điền chủ xin miếng đất biền để chôn, làm cho cuộc sống của người dân Cà Mau lúc bấy giờ sống trong cảnh thảm thương. Đặc biệt là đối tượng buôn bán (nhỏ) ở khu vực Cà Mau phải chịu cảnh chèn ép giá cả của bọn bạn hàng lớn (có thế lực với bọn chúng). Vì thế diễn ra mâu thuẫn giữa người bán nhỏ với người mua bán lớn (có thuế thân) làm cho người mua bán nhỏ cuộc sống cũng vất vả. Khu vực ở Cà Mau lúc bấy giờ không có bao nhiêu người mua bán chỉ có một số người tương đối khá hơn đã dựng vài nhà máy xay xát (xay lúa), và những điểm lò rèn làm dụng cụ cho sản xuất (vẫn còn thô sơ).

Một số điểm thương mại buôn bán nhỏ như: ở chợ nhỏ Thới Bình, Cái Keo, Vàm Đầm (Bào Sen) và tại cụm dân cư tương đối đông ở Cà Mau. Tạo cho sự giao lưu buôn bán ngày được phát triển; người làm công xuất hiện ngày càng nhiều trên các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, làm biển, đan lác.v.v… tất cả điều bị sưu cao thuế nặng của bộ máy cai trị thực dân phong kiến, đặc biệt là đối với người làm thuê. Từ đó diễn ra hai cuộc sống tương phản trong thời kỳ lúc bấy giờ là :

“ Ta cơ cực, Tây vui say
Ta ăn gạo mục, 
Tây thịt quay bánh mì
Thằng Tây da dẽ hồng hào 
Còn ta lem luốc, cồn cào bụng phơi.”

Năm 1928, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở các nhà máy, xí nghiệp trong cả nước phát triển mạnh, có nhiều cuộc đấu tranh vượt qua cả yếu tố kinh tế. Các tỉnh, thành phố ở Nam Bộ, vai trò của công nhân đấu tranh đối với thực dân Pháp và bọn tư bản áp bức bóc lột ngày càng rõ. Nhất là ở Sài Gòn – Gia Định và xuống các tỉnh lân cận như Cần Thơ, Vĩnh Long.v.v… Những phong trào đó đều có tác động đến người lao động ở khu vực Cà Mau. Cho nên nhiều cuộc đấu tranh xuống đường chống lại bộ máy cai trị của thực dân phong kiến ở các tầng lớp nhân dân và sinh viên ngày càng tăng. Người thanh niên Huỳnh Quảng quê ở Khánh An Cà Mau học trường Trung học ở Cần Thơ tham gia xuống đường đòi bãi khóa chống lại sự bất công của bộ máy thực dân. Anh đã bị chúng theo dõi và truy nã. Cho nên anh đã cùng bạn bè sang Trung Quốc được gặp Bác Hồ giáo dục và đưa vào tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội năm 1926 và sau đó Bác đưa anh học trường quân sự Hoàng Phố ở Trung Quốc, anh đã trở thành đảng viên đảng Cộng sản, được đồng chí Nguyễn Ái Quốc đưa về nước, làm Bí thư thành phố Sài Gòn – Gia Định vào năm 1930 - 1931(2). Đây là người đầu tiên quê ở Cà Mau được Bác Hồ trực tiếp giáo dục và rèn luyện đã trở thành đảng viên Cộng Sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân.

Làn sóng đấu tranh của người lao động – giai cấp công nhân trong cả nước phát triển ngày càng mạnh, nhiều cuộc đấu tranh đình công chống lại sự bóc lột dã man của bọn thực dân phong kiến và tư bản. Đúng như đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá: “Dấu hiệu của thời đại, dấu hiệu của giai cấp công nhân (Việt Nam) bắt đầu giác ngộ về lực lượng và khả năng của mình(3)”. Và phong trào yêu nước trong quần chúng cũng dấy lên mạnh mẽ như ở Nam Kỳ có phong trào yêu nước của nhóm Nguyễn An Ninh đã tác động đến các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long.

Tại tỉnh Bạc Liêu (khu vực Cà Mau) lúc bấy giờ có tổ chức phong trào đòi học chữ quốc ngữ cũng nhằm đấu tranh với bọn thực dân bảo vệ tiếng nói chữ viết của dân tộc ta. Tuy trong tỉnh không có nhà máy xí nghiệp lớn như những nơi thành phố, nhưng phong trào đấu tranh yêu nước đã diễn ra các khu dân cư tập trung ở thành thị (2 điểm: tỉnh lỵ Bạc Liêu và thị trấn Cà Mau) như trong tài liệu của bọn mật thám Pháp theo dõi có ghi: Tỉnh Bạc Liêu các tên phiến loạn (địch gọi là đối phương ) tổ chức lẻ tẻ truyền bá tư tưởng chống lại nhà nước Pháp tại Việt Nam…

Vào những năm 1925 – 1927 đồng chí Nguyễn Ái Quốc quan hệ với đồng chí XA.Iodốpxki là tổng thư ký của BCH Quốc tế Công Hội Đỏ mang về tạp chí Công Hội Đỏ quốc tế để góp phần tuyên truyền cho giai cấp công nhân. Từ đó dần dần các Công đoàn cải lương chuyển dần và cải chứng thành các Công đoàn cách mạng ở Việt Nam là sự nghệ thuật của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc(4).

Phong trào cách mạng ở tỉnh Bạc Liêu – Khu vực Cà Mau lúc bấy giờ đã có sự tác động trực tiếp rất lớn của phong trào cách mạng chung nhiều nhất là phong trào đấu tranh của người lao động – công nhân ở Sài Gòn. Như cuộc bãi công lớn của công nhân Ba Son kéo dài gần một tuần lễ đã giành thắng lợi. Đây là cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam mang tính chất chính trị và quốc tế. Từ đó tác động đến lực lượng trí thức và người lao động ở tỉnh nhà.

II. PHONG TRÀO YÊU NƯỚC ĐƯỢC PHÁT TRIỂN

Tại thị trấn Cà Mau, cuối năm 1927, đồng chí Đào Hưng Long được kỳ Bộ Nam Kỳ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội cử về hoạt động tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin cho những thanh niên yêu nước ở Cà Mau. Đây là lần đầu tiên những người yêu nước ở Cà Mau được tiếp cận tư tưởng tiến bộ như luồng gió mới. Hay nói cách khác người lao động Cà Mau đã tiếp thu được tư tưởng tiên tiến của giai cấp công nhân về đến tận mảnh đất cuối cùng của Tổ quốc.

Tháng 1 năm 1929, chi hội Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội thị trấn Cà Mau được thành lập gồm các đồng chí: Lâm Thành Mâu, Nguyễn Văn Chánh (Tư Rạch), Trần Hải Thoại (Năm Thoại), Tân Văn Hai (Hai Tân) và một số đồng chí khác… Đây là lần đầu tiên một tổ chức Vô Sản của giai cấp công nhân Việt Nam được gieo trên mảnh đất cách mạng của Cà Mau – nơi đang khao khát lý tưởng của giai cấp công nhân.

Khi tổ chức Vô sản - Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ra đời đã sáng kiến lập ra hiệu sách “Hồng Anh Thư Quán”(5) vừa để bán sách báo tiến bộ, đồng thời làm cơ sở (điểm) cho các thành viên Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội để gặp gỡ nhau, trao đổi công việc. Đặc biệt là qua đó tìm hiểu những thanh niên có tư tưởng tiến bộ để tìm cách tuyên truyền giáo dục họ trở thành những thanh niên yêu nước chống lại kẻ thù. Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội của tỉnh còn tổ chức điểm bán cơm và cà phê lấy tên là “Tâm Đồng”(6) cũng nhằm hình thức lựa chọn (phát hiện) những thanh niên có tư tưởng tiến bộ lúc bấy giờ để tuyên truyền làm hạt nhân cho phong trào cách mạng.

Thanh niên cách mạng đồng chí Hội đã tổ chức được hai điểm “Hồng Anh Thư Quán” và quán cơm “Tâm Đồng” là một phương pháp nghệ thuật (rất khéo) để tìm những người có lòng yêu nước, nhằm bồi dưỡng tư tưởng của giai cấp vô sản cho họ; để tạo thêm lực lượng tiến bộ của nơi mảnh đất tận cùng Tổ quốc ngày thêm đông. Đây là tổ chức bí mật, nhưng hoạt động mang hình thức công khai (hợp pháp) để che mắt giặc, vì thế gần một năm mà kẻ thù mới phát hiện được. Nên chúng cấm không cho hoạt động và tìm bắt những người đứng ra tổ chức. Tuy địch có ngăn chặn những hình thức hoạt động của tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, nhưng chúng không ngăn chặn được tư tưởng cách mạng của giai cấp công nhân đã thâm nhập vào những con người tiến bộ ở Cà Mau. Cho nên những hoạt động tổ chức tuyên truyền xuất hiện bằng nhiều hình thức rải truyền đơn, dán biểu ngữ… làm cho kẻ thù lo lắng phong trào cách mạng đang phát triển trong tỉnh.

Các hoạt động của Hội Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội đã tác động ảnh hưởng rộng rãi trong dân nghèo ở thị trấn Cà Mau và các xã chung quanh, nhất là đối với tầng lớp nhân dân lao động. Cho nên đã xuất hiện những cuộc đấu tranh chống áp bức của kẻ thù, như đòi miễn giảm thuế thân, đòi được vào rừng đốn cây để sửa chửa nhà ở.v.v... làm cho bọn tề lo lắng phong trào cách mạng ở đây. Vì thế chúng tăng cường đàn áp và cho mật thám tích cực theo dõi, bắt bớ những người lao động mà chúng tình nghi. Nhưng trong năm 1929 và đầu năm 1930 phong trào đấu tranh của người dân lao động trong tỉnh ngày càng phát triển mạnh, nhất là phát triển dần xuống khu vực lao động làm lò than ở Năm Căn.

Từ những năm 1927 đến năm 1929 các lò than ở khu vực Năm Căn, Cái Nẩy, Cái Keo đã phát triển nhiều, có những nơi lò than mọc lên như nấm. Số lượng dân lao động ngày càng đông. Các công việc lao động diễn ra càng nhiều như: đốn cây, chuyên chở, hầm than của một số khu vực lên cả trăm người. Bởi vì bọn thực dân phong kiến đã tập trung khai thác cây gỗ rừng đước, cho nên thu hút số lượng dân lao động khá đông. Từ đó bọn chủ lò than, lợi dụng số đông hạ thấp giá mướn, so những ngày bình thường đến 1/3 số tiền, thậm chí có lúc hạ xuống phân nửa của những ngày thường. Đây là hình thức lợi dụng bóc lột sức lao động của người dân nơi đây bằng hạ giá ngày công rẻ mạt.

Chúng cho người lao động đến những khu rừng còn hoang du, có những nơi không nhìn thấy ánh nắng mặt trời (cây rừng che kín). Những khu “vồ” cao sâu trong rừng, người lao động đốt cây để hầm than, kéo cây ra khó khăn, lại là nơi đó có nhiều rắn độc, ra sông thì có cá sấu.v.v... Phải nói lúc bấy giờ người lao động làm thuê ở khu rừng ngập mặn lo âu và cực khổ, có những người rắn độc cắn không có thuốc chữa (chết trên đóng cây). Có những lúc trời mưa tầm tả; muỗi, mồng mà người lao động vẫn lội bùn kéo từng khúc gỗ về để kịp giờ giao cho chủ. Và những lúc nước ròng sát, anh em làm thuê lấy tay móc từng con lạch để đưa cây ra kịp giờ để tránh bọn chủ lò than sa thải, hoặc giảm tiền công xuống. Người làm thuê lâm nghiệp lúc bấy giờ hết sức vất vả (cực khổ) gấp mấy lần ở khu vực trên bờ, hay các nhà máy xí nghiệp.

Theo lời kể của Bác Ba Thanh: Khu rừng Cái Keo đước mọc rất cao từ 20m đến 25m và bề quành hơn một người ôm, cho nên người đi đốn cây khi đốn hay bị cây ngã đè chết. Vì thế mỗi năm người đi làm thuê đốn cây cho lò than có hàng chục người chết do cây đè, chưa tính bệnh tật. Đây là phản ánh một phần người lao động làm thuê của người dân vùng sông nước Cà Mau sống trong chế độ thực dân, phong kiến.

Tháng 1 năm 1930, chi bộ Cà Mau được thành lập gồm các đồng chí: Lâm Thành Mậu, Nguyễn Văn Chánh, Tân Văn Hai, Phạm Ngọc Cừ, do đồng chí Lâm Thành Mậu làm Bí thư. Chi bộ này hoạt động theo hệ thống tổ chức An Nam cộng sản Đảng, sau này được thống nhất trực thuộc Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đây là chi bộ đầu tiên của tỉnh, đánh dấu bước trưởng thành phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân lao động vùng đất tận cùng cực Nam của Tổ quốc. Hay nói cách khác, tại vùng đất Cà Mau đã có tổ chức tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo phong trào cách mạng của tỉnh.

Khi chi bộ Cà Mau ra đời hệ tư tưởng của giai cấp công nhân được lan ra như những hạt giống đỏ gieo vào phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân tỉnh nhà. Từ đó tại xã Phong Thạnh cuối tháng 1 năm 1930 chi bộ cũng được thành lập do đồng chí Phạm Ngọc Cừ đảng viên chi bộ Cà Mau đến tuyên truyền chọn những thanh niên yêu nước tiến bộ kết nạp vào Đảng đã góp phần tích cực đưa phong trào cách mạng quần chúng ngày phát triển mạnh.

Đầu năm 1930, lần đầu tiên tại vùng đất nơi xa xôi tận cùng cực Nam của Tổ quốc thân yêu đã ra đời một tổ chức vô sản của giai cấp công nhân đó là tổ chức Đảng Cộng Sản, truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin cho phong trào cách mạng. Ngay từ những ngày chi bộ ra đời đã phát huy sức mạnh của mình, tiếp tục tuyên truyền giác ngộ quần chúng những tư tưởng yêu nước, tiến bộ, nhằm tạo sự chuyển biến nhận thức của những người lao động Cà Mau.

Tổ chức vô sản ra đời đã tăng cường tuyên truyền bằng nhiều hình thức như rải truyền đơn, dán biểu ngữ tại thị trấn Cà Mau và các xã chung quanh như trong báo cáo của bọn mật thám mang số 3405-5 đã ghi: Những tên phiến loạn (địch gọi) đã rãi truyền đơn nhiều nơi theo đường phố Cà Mau, ở Tất Vân, xã Tân Thành… và có những đoạn chúng ghi rất rõ là:“ Các truyền đơn nội dung đều nêu những lời phỉ báng với lời văn và cách viết chống chế độ tàn tệ nhất ”.

Đặc biệt trong năm 1930, vào ngày 3/2 các đảng viên chi bộ Cà Mau đã tổ chức treo lá cờ đỏ búa liềm trên sợi dây thép căng ngang sông Cà Mau (đầu kinh 16). Các đồng chí đã sáng kiến dùng thanh sắt buộc vào dưới lá cờ để có trọng lượng đưa lá cờ ra giữa sông (nơi độ dùn của dây thép) nhằm để cho kẻ thù khó lấy và cũng để được nhiều người đi qua lại sông Cà Mau dễ thấy. Đây là sự linh hoạt của các đồng chí đảng viên chi bộ Cà Mau trong những ngày Đảng cộng sản Việt Nam ra đời.

Sự kiện treo cờ Đảng (búa liềm) ngày 3/2 ở Cà Mau là sự kiện rất độc đáo. Lần đầu tiên người dân Cà Mau nơi mảnh đất xa xôi được nhìn thấy lá cờ Đảng (búa liềm) của giai cấp công nhân xuất hiện trên buổi sáng bình minh của thị trấn cuối cùng của Tổ quốc. Sự kiện lá cờ Đảng (búa liềm) hiên ngang trên sông Cà Mau đã làm chấn động, xôn xao bọn cầm quyền ở quận Cà Mau lúc bấy giờ. Trong lúc đó người dân Cà Mau rất phấn khởi – vui mừng đầu tiên thấy được lá cờ đội tiên phong của giai cấp công nhân mà từ lâu người dân Cà Mau mơ ước.

Lá cờ Đảng xuất hiện đầu năm 1930 đã có ý nghĩa sâu sắc và có tác động đến phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân lao động trong tỉnh; đồng thời tạo nhận thức mới cho nhân dân Cà Mau trong những ngày Đảng cộng sản Việt Nam mới ra đời đã tạo niềm tin, lý tưởng của giai cấp công nhân đối với người dân tận cùng Tổ quốc. Nhân ngày Quốc tế lao động 1/5 năm 1930 tại ven thị trấn Cà Mau, lại tiếp tục xảy ra sự kiện độc đáo ở tại Đình Tân Hưng, cách trung tâm thị trấn Cà Mau khoảng 3 km lại xuất hiện lá cờ Đảng (búa liềm) đang tung bay trên ngọn cây dương trước Đình. Trên lá cờ có dòng chữ “diệt trừ Pháp tặc”, đồng thời có ghi 3 chữ “Đức, Thế, Cao” có nghĩa là Đức là Nguyễn Đức Hương, Thế là Lương Thế Trân, Cao là Nguyễn Văn Cao... Đây là 3 chữ lót của 3 người thanh niên yêu nước đã dũng cảm đưa vị thế của lá cờ Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục tung bay trước mặt mọi người Cà Mau trong những ngày dân tộc ta còn sống dưới ách đô hộ của bọn thực dân Pháp.

Sự kiện treo cờ Đảng lần thứ 2 ở tại Đình Tân Hưng diễn ra trong thời điểm toàn thế giới kỷ niệm ngày quốc tế lao động 1/5 của giai cấp công nhân. Thì ở tại Cà Mau lá cờ búa liềm xuất hiện lần thứ hai được những người thanh niên yêu nước treo lên cho mọi người ở ven thị trấn Cà Mau được nhìn rõ lá cờ Đảng là lá cờ của đội tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo dân tộc Việt Nam đánh đổ thực dân, phong kiến để thực hiện một chân lý “Không có gì quí hơn độc lập tự do”.

Trong cùng một năm, cách nhau không quá 3 tháng mà đã diễn ra 2 sự kiện có tác động lớn đến phong trào đấu tranh cách mạng của người dân lao động tỉnh nhà, đồng thời tạo được niềm tin với Đảng ngay những ngày đầu mới thành lập. Trước sự kiện đó, báo cáo “mật” của bọn mật thám Pháp phải thú nhận: Trong năm 1930 bọn phiến loạn (nói ta) đã treo hai lá cờ huy hiệu của Nga (búa liềm) ở đường phố Cà Mau; và còn rãi truyền đơn nhiều nơi trong tỉnh…

Tuy ở khu vực Cà Mau lúc bấy giờ lực lượng giai cấp công nhân không có, nhưng tư tưởng tiến bộ của giai cấp công nhân đã đến những người yêu nước ở Cà Mau; tạo ra được những luồng gió mới không chỉ ở thị xã, thị trấn mà còn lan rộng trong lực lượng lao động ở vùng nông thôn Cà Mau.

Ngày 3/2/1930 Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của giai cấp công nhân và phong trào cách mạng Việt Nam. Từ đây giai cấp công nhân Việt Nam đã có bộ phận tham mưu, đội tiên phong của mình để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Và cũng từ mảnh đất tận cùng Tổ quốc lại có tổ chức Đảng của giai cấp Vô sản làm hạt nhân cho phong trào yêu nước trong tỉnh.

Sự kiện Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã tác động lớn đối với nhân dân trong nước nói chung, nhân dân lao động Cà Mau nói riêng. Cho nên phong trào đấu tranh dần dần đi vào chất lượng. Đặc biệt tổ chức tuyên truyền, rãi truyền đơn nêu cao tinh thần yêu nước của dân tộc và tạo sự đoàn kết gắn bó với nhau để đấu tranh với địch.

Hồ chủ tịch là người đầu tiên chỉ ra địa vị lịch sử của giai cấp công, nông Việt Nam và cũng lần đầu tiên Người đặc cơ sở cho việc xây dựng công hội cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam để làm hạt nhân cho phong trào.

Trong cuốn “Đường cách Mệnh”, Người viết: “Tổ chức Công hội trước là để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để cho nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là giữ quyền lợi cho công nhân, năm là giúp cho quốc gia, giúp cho thế giới”.

Qua đó ta thấy công hội mang tính chất cách mạng rõ rệt và mang ý nghĩa chính trị rất to lớn đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.

“Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội” đã tổ chức ra Công hội đỏ, nhằm tập hợp lực lượng chống lại kẻ thù ngày càng mạnh hơn. Cho nên Đảng ta đã tập hợp các Công hội đỏ ở cơ sở, tổ chức ra Tổng công hội đỏ do đồng chí Nguyễn Đức Cảnh là một sáng lập viên của Đảng(7). Từ đó phong trào cách mạng trong nước được tổ chức công hội đỏ là hạt nhân. Công hội đỏ ra đời đã phát động phong trào “Vô sản hóa” trong công nhân và nhân dân lao động.

III. CÔNG HỘI ĐỎ CÀ MAU RA ĐỜI

Tại Cà Mau, các đồng chí Nguyễn Văn Nhung và đồng chí Núi, đồng chí Quới đến Năm Căn để tuyên truyền và vận động “Vô sản hóa” trong lực lượng anh em khuân vác ở lò than và trong ngư dân để gây dựng cơ sở phong trào cách mạng ở khu vực Năm Căn.

Cuối năm 1930, đồng chí Phan Thái Hòa về khu vực Năn Căn vận động anh thợ bạc Văn Trung Thành và số người công nhân tốt đã tiến hành thành lập Công hội đỏ, đồng thời bầu ra ban cán sự của Hội do anh Văn Trung Thành làm trưởng Ban và anh Phan Chỉ Huy làm phó Ban. Đây là tổ chức Công hội đỏ ra đời sớm nhất ở khu vực Cà Mau. Khi tổ chức Công hội đỏ ra đời đã tập hợp được những anh em lao động ở lò than và những người khuân vác cây ở rừng. Công Hội đỏ của tỉnh ra đời đã đánh dấu phong trào đấu tranh cách mạng trong tỉnh có bước tiến nhảy vọt, đồng thời đã tạo được những hạt nhân cho phong trào của tỉnh.

Khi Công hội đỏ ra đời nhiều cuộc đấu tranh đòi tăng tiền công lao động, giảm bớt giờ lao động trực tiếp ở các lò than. Còn ở thị trấn, anh em cũng tổ chức từng nhóm tranh thủ với những chủ bao và bộ máy kiểm lâm của bọn chúng. Những cuộc đấu tranh có tình, có lý làm cho số lò than cũng phải nhượng bộ chấp nhận yêu sách chính đáng của anh em lao động như ở các lò than Cái Keo, Vàm Đầm, Bà Kẹo.v.v...

Tiêu biểu cuộc đấu tranh vào tháng 8/1932 có trên 100 lực lượng của lao động 6 lò thang và 4 cúp(8) trong toàn khu vực Năm Căn – Rạch Gốc (Tân Ân) đấu tranh kéo dài 20 ngày đêm do đồng chí Bông Văn Dĩa, Lưu Văn Thường nòng cốt của tổ chức Công hội đỏ đã lãnh đạo kéo đến Ban hội tề và các nhà chủ đòi các yêu sách đòi tăng tiền công, giảm giờ làm, cung cấp nước ngọt và quan tâm đến bệnh tật của anh em lao động. Phải nói sau khi Công hội đỏ ra đời các cuộc đấu tranh của anh em lao động (làm thuê) đã tác động nhiều nơi trong tỉnh.

Tháng 10 năm 1930, những thanh niên yêu nước ở Tân Thành được chọn vào đội ngũ Đảng. Từ đó chi bộ Tân Thành được thành lập; tăng thêm lực lượng giai cấp vô sản ở Cà Mau – là hạt giống đỏ cho phong trào cách mạng của tỉnh. Sự kiện chi bộ xã Tân Thành được thành lập đã tăng thêm sự giác ngộ của chủ nghĩa Mác – Lênin ở mảnh đất tận cùng của Tổ quốc. Tư tưởng tiến bộ của giai cấp công nhân đã đến những người lao động ở Cà Mau là một yếu tố rất quan trọng làm cho sự nhận thức của người dân lao động nơi đây (Cà Mau) có sự phát triển mới. Hay nói cách khác mảnh đất trù phú của Cà Mau đã được gieo thêm những hạt giống cách mạng trên mảnh đất quê hương đang chống áp bức bất công của kẻ thù.

Tổ chức “Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội” ra đời đến các chi bộ được thành lập và tổ chức Công hội đỏ với phong trào cách mạng “Vô sản hóa” đã chứng minh cho phong trào đấu tranh cách mạng của người dân lao động từ tự phát đến tự giác của tỉnh nhà. Tuy những cuộc đấu tranh của nhân lao động còn ở dạng còn thấp, lẻ tẻ, nhưng tổ chức cuộc đấu tranh với bọn bóc lột ngày càng quyết liệt. Đặc biệt tính tự giác ngày được bộc lộ rõ trong phong trào cách mạng của tỉnh.

Những tổ chức vô sản ở Cà Mau ra đời đã khẳng định cho mình nhiệm vụ đấu tranh chống áp bức bóc lột, và là những hạt nhân của phong trào chung. Vì thế khi có đội tiên phong cách mạng là Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo “Sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng Việt Nam đấu tranh nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột…”(9). Và đường lối của Đảng ta đã phản ánh yêu cầu khách quan của cách mạng Việt Nam là :

Đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến Việt Nam và giai cấp tư sản phản cách mạng, tịch thu tài sản của chúng, thành lập chính phủ công, nông binh, làm cho nước Việt Nam được độc lập

Đường lối đó đã thể hiện quan điểm của Đảng ta rất phù hợp với dân tộc và giai cấp công nhân Việt Nam. Từ đó đã tập hợp được lực lượng cách mạng dưới ngọn cờ quang vinh của đảng ta khi mới ra đời.

Cao trào cách mạng 1930 – 1931 tiêu biểu là phong trào công nhân đã làm nòng cốt cho phong trào cách mạng của cả nước. Tiêu biểu các cuộc Bến Thủy, đồn điền Phú Riềng, công nhân Thủ Dầu Tiến, Ca-ti-na (Sài Gòn), công nhân hãng dầu Nhà Bè, công nhân nhà máy đèn Cần Thơ,.v.v… tiếp tục đấu tranh đòi thi hành luật ngày làm 8 giờ đã tác động đến các phong trào cách mạng của tỉnh. Trong lúc đó phong trào cách mạng của nông dân ở nông thôn cũng nổi lên chống bọn địa chủ, phong kiến. Nhiều cuộc biểu tình hàng ngàn người thành làn sóng đấu tranh kéo đến nhà địa chủ đòi chia lúa, giảm thuế và ủng hộ khẩu hiệu của công nhân kỷ niệm ngày 1/5. Từ đó nhiều địa phương ở Nam Bộ đã diễn ra các phong trào đấu tranh chống thuế của bọn thực dân và phong kiến.

Những cuộc đấu tranh trong ngày 1/5 trong cả nước đã biểu thị ý thức chính trị và tinh thần giác ngộ cao chống lại bọn thực dân và phong kiến. Các cuộc đấu tranh của các tỉnh đã tác động mạnh mẽ đến vùng đất xa xôi ở Cà Mau, nhất là phong trào Xô-Viết Nghệ Tỉnh.

Phong trào Xô-Viết Nghệ Tỉnh tuy bị đàn áp rất dã man, nhưng để lại một tấm gương sâu sắc về tinh thần hy sinh và mối tình đoàn kết công, nông; đồng thời biểu thị tinh thần cách mạng quyết liệt chống áp bức, bất công và đòi: “Tăng tiền lương, bớt giờ làm, giảm sưu thuế, bỏ đánh đập...”.

Sau cuộc đàn áp khốc liệt của phong trào Xô-Viết, địch đã tăng cường bắt bớ và thẳng tay đàn áp các cuộc đấu tranh của giai cấp công, nông trong cả nước. Ngay ở tại Cà Mau, địch cho tìm bắt những người (chúng nghi là những bọn phiến loạn) và đàn áp các cuộc đấu tranh của quần chúng.

Trong năm 1931 và đầu năm 1932, địch đã truy lùng bắt gần hết các đồng chí đảng viên của 2 chi bộ (thị trấn Cà Mau và Tân Thành) làm cho phong trào cách mạng trong tỉnh tạm thời lắng xuống.

Năm 1932, đồng chí Phan Ngọc Hiển, thanh niên yêu nước là giáo viên học trường sư phạm ở Sài Gòn. Sau khi mãn học, anh đã về dạy học ở Tân Ân. Khi anh xuống Rạch Gốc, xã Tân Ân vừa dạy học, vừa tổ chức tập hợp những thanh niên để tuyên truyền giáo dục tinh thần yêu nước; đồng thời cùng quần chúng lao động đấu tranh với bọn tề ở tại chỗ. Tạo được những cuộc tranh luận (lý lẽ) với bọn thầu bao (thủy hải sản và lâm nghiệp), đặc biệt là những tên tề hà hiếp nhân dân. Quần chúng đã tìm những lý lẽ hợp lý (có lý, có tình) để tranh thủ với chúng, nhằm hạn chế sự bóc lột tàn nhẩn của bọn tề, thầu bao ở tại khu vực Năm căn.

Anh Hiển xuống Tân Ân đã mang những tư tưởng tiến bộ từ thành phố nơi những phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân đã diễn ra thường xuyên chống áp bức, bất công. Cũng chính nơi đó anh đã trực tiếp thấy những cảnh hà hiếp công nhân và sự nổi dậy của các lực lượng nhà máy xí nghiệp. Những hiện tượng ấy góp phần hun đút tinh thần cách mạng và lòng yêu nước của anh mang đến người lao động ở xã Tân Ân.

Năm 1932, phong trào cách mạng trong tỉnh dần dần khôi phục, các tổ chức Công hội đỏ bắt đầu liên lạc lại những đồng chí đảng viên, nồng cốt của mình còn lại sau sự khủng bố khốc liệt trong thời kỳ Xô-Viết Nghệ Tĩnh.

Tháng 6 năm 1932, đồng chí Văn Trung Thành và những người tổ chức Công hội đỏ ở khu vực Năm Căn đã về thị trấn Cà Mau để tiếp tục hoạt động cách mạng, đồng chí đã lập ra tiệm thợ bạc đề tên là “Trung Thành” vừa để che mắt giặc, vừa làm điểm để liên lạc nhằm bảo vệ những cán bộ đảng viên bị khủng bố ở những địa bàn khác như đồng chí Kiều, đồng chí Huỳnh Đề Thám, Quãng Trọng Linh,.v.v… Những công tác tuyên truyền và vận động, xây dựng cơ sở quần chúng ở thị trấn Cà Mau dần dần khôi phục lại. Như trong báo cáo của bọn mật thám Pháp ở Cà Mau có ghi: “Ngày 10-12-1932, một cờ cách mạng dấu hiệu Cộng Sản và Cao Đài, cũng như những khẩu hiệu phá hoại khác đã được tìm thấy… trên con đường Cà Mau, gần làng Định Thành, trong huyện Quảng Long…”(10) và địch khẳng định các nơi khác trong tỉnh, nhất là theo trục lộ Cà Mau – Bạc Liêu đã xuất hiện nhiều truyền đơn, biểu ngữ kêu gọi quần chúng đứng lên chống chánh quyền của Pháp ở Việt Nam.

Tuy địch có đàn áp các phong trào cách mạng trong tỉnh, nhưng các tổ chức cách mạng, nhất là những cán bộ nòng cốt của phong trào cũng bắt đầu móc nối, liên lạc với nhau đễ tổ chức đấu tranh với địch. Như trong cuộc đấu tranh ngày 29-5-1932 ở Sở muối Bạc Liêu, địch phát hiện có ba người mà chúng gọi là những người “cầm đầu”. Phong trào lúc bấy giờ ta đang hoạt động dưới dạng bí mật của các tổ chức Công hội.

Để phát huy mọi hình thức của phong trào cách mạng, ngay trong những năm 1933 – 1934, các tổ chức lao động ta đưa vào dạy nghề nghiệp như thợ mộc, thợ hớt tóc của 2 khu vực (tỉnh lỵ và thị trấn Cà Mau). Những tổ chức khác, ta bắt đầu mang tính liên kết với nhau và tương hỗ cho nhau để thống nhất ý chí nhằm chống sự bất công của kẻ thù diễn ra trong tỉnh.

Tháng 7/1935, Quốc tế cộng sản đã hướng chống chủ nghĩa phát xít trên toàn cầu. Từ quan điểm đó, chủ trương của Đảng ta: “Đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do dân chủ, cơm áo và hòa bình”(11).

Thực hiện chủ trương trên, các đồng chí đảng viên ở các chi bộ trong tỉnh đã lãnh đạo những người lao động trong các điền chủ và các lâm nghiệp, các người khuân vát ở các nhà máy xay lúa hướng theo mục đích của mình để đấu tranh. Vì các cuộc đấu tranh lẻ tẻ ở đường phố, nơi công cộng chợ búa từng bước đi vào qũy đạo mục đích nêu ra. Tuy các cuộc đấu tranh nầy không lớn, nhưng làm cho lực lượng lao động của các xí nghiệp nhà máy quan tâm hơn.

Ngày 01/5/1935, tại tỉnh nhà đã danh dự được đón nhận các đồng chí vượt Côn Đảo về đất liền(12) như các đồng chí: Tống Văn Trân, Tạ Uyên, Phạm Hồng Thám, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Văn Trọng… Đây là những đồng chí cán bộ cao cấp của Đảng ta đã vượt trùng dương về đất liền mang hệ tư tưởng vô sản của giai cấp công nhân đến vùng đất đang khao khát một lý tưởng Cộng sản..

Khi các đồng chí về đất liền là những hạt giống quý báu cho phong trào cách mạng trong tỉnh. Và cũng từ lúc này hệ tư tưởng của giai cấp công nhân được truyền bá ngày càng nhiều trong lực lượng lao động ở quê hương Cà Mau. Đồng chí Phạm Hồng Thám là đảng viên của năm 1930 được Xứ ủy phân công ở lại vùng đất Cà Mau hoạt động. Đồng chí đến khu vực Năm Căn gặp đồng chí Phan Ngọc Hiển và anh Nguyễn Văn Hoành đã tích cực gầy dựng phong trào cách mạng. Đặc biệt là các đồng chí bám vào những cơ sở lò than và khu vực lao động vác cây ở lâm nghiệp cùng với những người làm thuê ở các lĩnh vực khác, nhằm từng bước tuyên truyền giáo dục họ để giác ngộ cách mạng và tạo cơ sở tại chỗ.

Ở khu vực xã Tân Ân và Tân Hưng Tây đã thành lập các Hội ái hữu, tương tế của quần chúng để tạo lực lượng đấu tranh với bọn tề. Và sau đó các Hội ái hữu được thành lập rộng rãi của các xã trong tỉnh. Ở xã Thới Bình, Tân Hưng, Tân Thành… Đây là tổ chức hoạt động công khai của nhân dân lao động trong tỉnh.

Các tổ chức vô sản của giai cấp công nhân hoạt động mạnh như các thành viên của các chi bộ ở những khu vực trong tỉnh đã dùng mọi hình thức để tuyên truyền trong quần chúng. Như trong báo cáo của bọn mật thám Pháp đã ghi: “Vào buổi sáng ngày 5/10/1934, hương quản làng Tân Hưng, Tổng quản Long, huyện Cà Mau đã lượm được 8 truyền đơn cộng sản in bằng rau-câu, bỏ cách trụ sở làng 1,5 Km. Những lời văn phỉ báng chế độ của Pháp ở Việt Nam”(13)

Tháng 7 năm 1936, thực dân chủ trương tranh thủ Quốc tế cộng sản và tranh thủ Việt Nam ban hành những chính sách tự do dân chủ ở nước thuộc địa tại Mặt trận bình dân Pháp, vì thế Đảng ta đã chủ trương chuyển hướng chiến lược cách mạng Việt Nam là tạm gác khẩu hiệu độc lập dân tộc và người cày có ruộng đất để tập trung vào những khẩu hiệu xác với tình hình thực tế lúc bấy giờ đó là khẩu hiệu: đòi dân sinh, dân chủ, thành lập nhân dân phản đế Đông Dương gọi là mặt trận Dân Chủ Đông Dương. Có nghĩa là thực hiện mục đích bảo vệ hoà bình, chống chiến tranh phát xít. Cho nên những năm 1936 – 1939 Đảng ta tập trung chỉ đạo nêu cao, cao trào vận động phong trào đấu tranh công khai sôi nổi khắp cả nước. Bằng nhiều hình thức: Hợp pháp, nửa hợp pháp; Phong trào nầy sôi nổi nhất là ở Nam bộ (cụ thể là Sài Gòn).

Từ đó đã tác động mạnh mẽ đến tỉnh nhà. Cho nên Liên Tỉnh Ủy Hậu Giang chỉ đạo chi bộ thị trấn Cà Mau có kế hoạch và đưa ra bàn bạc một số vấn đề trước mắt thực hiện như:

1. Dùng nhiều hình thức tổ chức công khai (hợp pháp) và nửa hợp pháp để thu hút rộng rãi các tầng lớp nhân dân, các giới thanh niên, phụ nữ, trí thức, học sinh, tôn giáo… Qua các tổ chức đó sẽ giáo dục, giác ngộ chính trị cho quần chúng để đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, chống áp bức bóc lột, chống chiến tranh đế quốc.

2. Cử một số Đảng viên có uy tín và có khả năng ra hoạt động công khai để tiếp xúc với các giới trí thức, công chức, giáo viên, các chức sắc tôn giáo... vận động họ cùng đấu tranh đòi quyền tham gia bàn bạc về lợi ích của họ. Với tư cách công khai bênh vực quyền lợi giới lao động và các đồng chí hướng dẫn quần chúng đấu tranh chống áp bức, bóc lột, chống hối lộ và phản ánh các cuộc đấu tranh của quần chúng trên báo chí công khai. Như đồng chí Lâm Thành Mậu, Văn Trung Thành, Tào Văn Tỵ, Phan Ngọc Hiển, Hồng Hoa ra hoạt động công khai.

3. Mở một hiệu sách, báo công khai của Đảng để phổ biến chủ trương, sách lược của Đảng, tuyên truyền học thuyết Mác – Lênin và quan điểm của Đảng và các vấn đề thời sự trong nước và quốc tế, đồng thời làm nơi liên lạc công khai với quần chúng. Nhằm để tuyên truyền giác ngộ nhân dân nói chung, nhân dân lao động nói riêng.

4. Thành lập hai chi bộ, một chi bộ công khai do đồng chí Lâm Thành Mậu làm Bí thư, một chi bộ bí mật do đồng chí Phạm Hồng Thám làm Bí thư(14). Để vận động phong trào cách mạng trong tỉnh. Từ đó các tổ chức chống lại địch, đòi quyền dân sinh, dân chủ đã diễn ra.

Chủ trương đã phù hợp với tình hình mới, nhằm phát huy sức mạnh tư tưởng của giai cấp vô sản trong giai đoạn cách mạng mới, nhằm tạo sự nhận thức của các giới trí thức, công chức, giáo viên và những người lao động yêu nước trên mảnh đất Cà Mau.

Để thực hiện nhiệm vụ của Đảng đề ra. Đồng chí Lâm Thành Mậu và đồng chí Văn Trung Thành đứng ra vận động các giới và cử đại diện để thành lập Ủy Ban Hành Động của thị trấn Cà Mau; đồng thời Ủy Ban Hành Động tỉnh cũng tiến hành tổ chức tập hợp các tầng lớp dưới dạng Hội để tập hợp sức mạnh đấu tranh chống kẻ thù. Nhiều nơi thành lập được như Thạnh Phú, Tân Ân , Phong Lạc, Tân Hưng, Thới Bình. Khi các Ủy Ban ra đời đã tập hợp trao đổi, thảo luận và lập bản dân nguyện, cử người đi giải thích và lấy chữ ký; cử đại biểu đi dự Hội nghị cấp trên nhằm đóng góp nguyện vọng của người dân lao động đến nhà cầm quyền Pháp.

Phong trào nầy thông qua các tổ chức ái hữu, tương tế dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản hoạt động rất khôn khéo và sôi nổi. Những hoạt động nầy làm cho bộ máy kẻ thù lúng túng trước yêu sách chính đáng của quần chúng.

Các hình thức tổ chức ái hữu phát triển lan rộng trong tỉnh nhất là những nơi có dân cư đông (nơi có tính chất đô thị). Ngoài tổ chức ái hữu ở thị trấn Cà Mau, còn tổ chức Hội những chị em buôn gánh bán bưng, các nghiệp đoàn thợ may, hớt tóc.v.v... Các hình thức để tập hợp quần chúng tuyên truyền, giáo dục và tổ chức chống lại những chủ trương của kẻ thù. Có những cuộc đấu tranh của các anh em ở nhà máy xay lúa, trại cưa, tổ thợ thủ công đòi bọn thầu và chủ, đòi làm việc 8 giờ, tự do hội họp, tự do nghiệp đoàn.v.v…

Phong trào đấu tranh mạnh mẽ khắp cả nước làm cho cầm quyền Pháp ở Đông Dương phải nhượng bộ, cho nên ngày 11/10/1937, chúng ra nghị định bắt các nhà tư bản ở Việt Nam thi hành kể từ ngày 01/01/1938 thành luật ngày làm việc 8 giờ và hằng năm công nhân nghĩ phép có lương. Đây là kết quả đấu tranh của công nhân Việt Nam, nhưng các nhà tư bản và bọn chủ cũng tìm mọi cách để né tránh thực hiện những luật đó bằng cách công nhật, làm khoáng để tránh nghĩ phép có lương... Vì thế các cuộc đấu tranh của công nhân và những người lao động làm thuê các lĩnh vực vẫn tiếp tục diễn ra những cuộc đấu tranh quyết liệt với bọn chúng.

Năm 1937 cuộc đấu tranh mang tính chất qui mô và có tiếng vang là cuộc đấu tranh gần 2000 lực lượng làm xâu ở lộ Cà Mau – Năm Căn, đòi chủ thầu phải nâng tiền công và cho uống nước sạch, bệnh phải có thuốc chữa.v.v.. Cuộc đấu tranh diễn ra trước khi làm và những ngày sau vẫn còn phát triển mạnh làm cho các chủ thầu và bọn tề lo sợ. Đây là cuộc đấu tranh lớn mang tính tập trung diễn ra nhiều ngày từ trước tới giờ. Cuộc đấu tranh nầy phản ánh sức mạnh tập thể và chứng minh sự trưởng thành của phong trào cách mạng của tỉnh ngày càng cao và đi vào chất lượng.

Sau cuộc đấu tranh qui mô bắt dân làm lộ xe Cà Mau – Năm Căn. Ở thành thị công nhân lao động ở các xưởng máy, các Hội ngành nghề ở khu vực Bạc Liêu và Cà Mau cũng xây dựng những lực lượng nòng cốt của ta tổ chức đấu tranh đòi quyền lợi cho người lao động về vật chất và tinh thần. Đặc biệt là Hội truyền bá quốc ngữ hoạt động rất mạnh, các khu vực ở thành thị và nông thôn. Lực lượng trí thức và các thợ thủ công, công nhân lao động khuân vác là những hạt nhân tích cực của phong trào đấu tranh trong tỉnh.

Năm 1937 – 1938, các chi bộ trong tỉnh đã phát triển mạnh, đã có gần 20 chi bộ trong tỉnh ra đời là yếu tố quan trọng có tính chất quyết định làm ngòi pháo cho các cuộc đấu tranh diễn ra của tỉnh nhà. Từ đó các tổ chức quần chúng cũng được xây dựng và phát triển để tạo sức mạnh cho lực lượng cách mạng. Đặc biệt thời kỳ này (1937 – 1939) nhà trí thức yêu nước Phan Ngọc Hiển đã được chi bộ phân công ra hoạt động công khai cùng với đồng chí Tào Văn Tỵ, Văn Trung Thành đấu tranh với địch trên lĩnh vực báo chí. Phải nói lúc bấy giờ đồng chí Phan Ngọc Hiển đã tích cực đi xác phong trào hoạt động của quần chúng. Đồng chí đã viết cả trăm bài báo phản ánh phong trào đấu tranh của người lao động ở khu vực Cà Mau; đồng thời có những bài viết kêu gọi tuổi trẻ phát huy tinh thần yêu nước:

“Hỡi thanh niên! Chúng ta đang sống vơi cái bịnh chung. Bịnh ấy lần hồi có thể giảm giá trị “thanh niên” chúng ta. Bịnh ấy là bệnh “sống mơ mộng”. Đồng thời đồng chí còn nhấn mạnh: nhắc nhở thanh niên đứng lên cứu nước, chống bọn áp bức, bất công...

Và những bài vạch mặt bọn cướp nước, bán nước và những bọn tề đê hèn ăn hối lộ và ức hiếp dân.v.v...nhằm tố cáo tội ác của bọn thực dân phong kiến hiép đáp dân...

Đây là người tri thức của giai cấp vô sản trên mảnh đất Cà Mau đã kiên cường đấu tranh quyết liệt với kẻ thù trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa. Tạo được tấm gương tiêu biểu của đảng viên trí thức đã góp phần với nhân dân lao động tỉnh nhà chống lại sự bất công của bọn thực dân phong kiến.

Khi quận Cà Mau được thành lập(15), đã tạo được yếu tố thuận lợi cho việc lãnh đạo các tổ chức đoàn thể để thực hiện nhiệm vụ chính trị của cấp ủy lúc bấy giờ. Quận ủy do đồng chí Phạm Hồng Thám làm Bí thư, đồng chí Trần Văn Đại làm phó Bí thư. Quận ủy Cà Mau ra đời, tạo được sự thống nhất chỉ đạo phong trào cách mạng của khu vực Cà Mau. Vì thế, các hoạt động của những người lao động, các tổ chức ái hữu, tương tế theo hướng Công hội đỏ ngày được chất lượng là do lực lượng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo. Đặc biệt ngày 01/5/1935, Trung ương Đảng đã chủ trương tổ chức lễ kỷ niệm ngày lao động quốc tế công khai trên các thành phố lớn, đã tác động không nhỏ đến người dân lao động ở Cà Mau.

Hưởng ứng chủ trương của Trung ương Đảng, tại thị trấn Cà Mau, tổ chức cuộc mít tinh công khai gần 200 đại biểu đến dự (đại diện của các xã và số tổ chức nghiệp đoàn trong tỉnh). Tuy cuộc mít tinh nầy bọn lính mã tà và cảnh sát của địch đến bao vây và tìm mọi cách phá hoại. Nhưng đồng chí Nguyễn Công Trung và Phan Ngọc Hiển được tập thể phân công vẫn bình tĩnh thay nhau thuyết trình những nội dung cách mạng cho quần chúng nghe. Vì thế bà con nắm tay xiết chặt nhau không chừa chỗ trống nhằm không cho kẻ phá hoại xen vào, để bảo vệ cho đồng chí Trung và đồng chí Hiển thuyết trình đến hết nội dung. Đây là buổi mít tinh công khai lần đầu tiên có số lượng người rất đông ở khu vực Cà Mau. Qua cuộc mít tinh càng chứng minh sức mạnh của lực lượng quần chúng cách mạng và phong trào đấu tranh ở đô thị của tỉnh ngày càng được nâng cao và có hiệu quả. Cuộc mít tinh này còn thấy rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa lực lượng nông thôn và lực lượng lao động ở thành thị như anh em ruột thịt. Đó là biểu hiện sức mạnh của công – nông ở trên mảnh đất Cà Mau.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong tỉnh đòi hỏi phải có sự thống nhất lãnh đạo chung của tỉnh. Vì thế, ngày 25/10/1938 tỉnh ủy lâm thời được thành lập, do đồng chí Bùi Thị Tường làm Bí thư, đồng chí Trần Văn Đại làm phó Bí thư. Tỉnh ủy lâm thời ra đời, đánh dấu bước phát triển công– nông-trí của tỉnh nhà, đồng thời khẳng định tính giai cấp của phong trào cách mạng trong tỉnh ngày được rõ nét hơn. Và giờ đây phong trào đấu tranh của tỉnh có sự lãnh đạo của đội tiên phong giai cấp công nhân Việt Nam trực tiếp là Đảng bộ tỉnh. Và cũng từ đây định hướng tính vô sản của phong trào cách mạng được chặc chẽ hơn.

Cuối năm 1938, tình hình thế giới và trong nước bắt đầu có những biểu hiện không có lợi cho phong trào dân chủ công khai ở nước ta. Ngay trong tỉnh kẻ thù cũng tăng cường lùng bắt những người cầm đầu các phong trào cách mạng. Cho nên phong trào đấu tranh của tỉnh cũng bắt đầu dịu dần mà rút vào thế hoạt động bí mật là chính. Bọn phản động thuộc địa lúc bấy giờ ra lệnh thu giấy phép của các tổ chức ái hữu và cấm biểu tình trong ngày 1/5. Nhưng thực tế phong trào cách mạng vẫn tiếp tục. Cho nên giai cấp công nhân nâng cao tư tưởng, chính trị, văn hóa ngày càng toàn diện để nâng cao vai trò sứ mệnh lịch sử của mình. Như Bác Hồ đã đánh giá: “Các cuộc bãi công ấy đều đưa ra những yêu sách cụ thể hơn, đòi tăng lương, ngày làm 8 giờ, bảo hiểm xã hội, công nhân đại biểu, tự do nghiệp đoàn. Đó là những yêu sách cơ bản”(16).

Ngày 02/02/1939, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất đã bầu đồng chí Trần Văn Đại làm Bí thư, đồng chí Lê Hữu Ngọc làm phó Bí thư. Đây là đánh dấu sự phát triển mạnh của Đảng bộ tỉnh trong hơn 8 năm hoạt động kể từ khi chi bộ Đảng đầu tiên ra đời (tháng 1/1930). Công – nông – trí trong tỉnh chính thức có một Đảng bộ đại diện cho hệ tư tưởng vô sản lãnh đạo phong trào cách mạng của tỉnh.

IV. KHỞI NGHĨA HÒN KHOAI, TẠO NIỀM TIN CHO LỰC LƯỢNG CÔNG – NÔNG – TRÍ CÀ MAU

Chiến tranh thế giới lần thứ II nổ ra, các bọn đế quốc trên thế giới liên kết thành 2 phe xâu xé lẫn nhau; đế quốc Pháp cũng lôi cuốn vào vòng chiến. Cho nên chúng tăng cường thực hiện các chính sách bóc lột dân ta rất thậm tệ. Có nghĩa là chúng lấy cớ có chiến tranh, cho nên bọn phản động thuộc địa ban hành nhiều chính sách cưỡng bức công nhân về mặt lao động. Ngày 10/11/1939 Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định tăng số giờ làm việc hằng tuần lên 60 giờ cho công nhân nam và 54 giờ cho công nhân nữ và trẻ em; còn 72 giờ trong tuần cho các xưởng kỷ nghệ. Nếu ai không tuân lệnh thì bị phạt từ sáu ngày đến ba tháng và phạt tiền từ 100 đến 1.000 phơ – răng. Công nhân bị ép buộc đi xây dựng đường chiến lược, pháo đài, giao thông hào, thì phải lao động theo chế độ khổ sai dưới giám sát của binh lính. Đế quốc Pháp còn biến Việt Nam thành kho cung cấp người, tiền của, vũ khí cho cuộc chiến tranh (17).

Nắm vững chủ nghĩa Mác – Lênin, coi mọi chiến tranh đế quốc là tai họa. Cho nên Đảng ta chủ trương trong thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương là “Chống phát xít Đức”, “Chống chiến tranh đế quốc”. Vì thế Đảng ta tập hợp mọi lực lượng để đấu tranh giải phóng dân tộc, và chuẩn bị cuộc khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ. Đặc biệt là phát huy sức mạnh công-nông-trí (ở thành thị và ở nông thôn).

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, tháng 5/1940, Tỉnh ủy khẩn trương triệu tập cuộc Hội nghị ở Tắc Ông Do. Cuộc Hội nghị có đại diện Xứ ủy, Tạ Uyên đến dự. Cuộc Hội nghị này đã bầu bổ sung đồng chí Trần Văn Thời, Bí thư Tỉnh ủy (thế đồng chí Trần Văn Đại, bị địch bắt), đồng thời bổ sung đồng chí Trần Văn Phán, Quách Văn Phẩm vào thường vụ Tỉnh ủy. Cuộc Hội nghị này bàn kế hoạch lãnh đạo phong trào cách mạng trong tỉnh và chuẩn bị cho hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ. Đặc biệt là các đoàn thể quần chúng được thành lập như: Hội nông dân cứu quốc, Hội phụ nữ cứu quốc, Hội thanh niên cứu quốc và các Hội ái hữu cũng chuyển thành những Hội cứu quốc nhằm mục đích tập trung nhiệm vụ chính trị của Đảng ta lúc bấy giờ là đánh đế quốc.

Các tổ chức quần chúng trong tỉnh đã được tổ chức học tập những tinh thần nội dung chống đế quốc của Đảng ta. Cho nên các nơi hưởng ứng chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa, nhất là những lực lượng nòng cốt kề cận của giai cấp vô sản. Đó là lực lượng nhân dân lao động được Đảng bồi dưỡng là thành phần cơ bản, có tính tư tưởng của giai cấp công nhân sẵn sàng chiến đấu – hy sinh cho giải phóng dân tộc.

Các khu vực của xã Tân Hưng Tây, Tân Hưng, Phong Lạc, Trần Hợi, Hòa Thành, Tân Thành, Tân Lộc và Tân Phú các lực lượng đoàn thể cứu quốc bước đầu được luyện tập võ thuật và chuẩn bị các phương tiện (vũ khí thô sơ) để hưởng ứng khởi nghĩa. Anh, chị, em tiểu thương buôn bán ở thành thị thì bí mật thông báo thông tin, tinh thần nổi dậy chống đế quốc nhằm khỏi ách nô lệ. Đúng như nhiệm vụ của giai cấp công nhân đặc ra là: “Tranh đấu chống đế quốc chiến tranh đi đến thủ tiêu hẳn chiến tranh và sự bóc lột“. Cho nên Đảng ta chủ trương thành lập “Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương”. Và Đảng ta chủ trương cụ thể là những tổ chức Công hội hoạt động công khai nay “phải tổ chức hoạt động bí mật” và lấy tên là “ Hội công nhân phản đế “ do đảng viên hay hội viên tích cực phụ trách.

Ở Cà Mau tuy không có “Hội công nhân cứu quốc”(18) nhưng tinh thần chính trị, tư tưởng của giai cấp công nhân được lồng trong nhiệm vụ hoạt động cách mạng của các tổ chức “Hội cứu quốc” xoay quanh nhiệm vụ của Đảng, và được Đảng lãnh đạo trực tiếp để hoàn thành những nhiệm vụ của mình. Cho nên phong trào cách mạng quần chúng của các xã và thành thị đều mang những nội dung tinh thần yêu nước chống đế quốc rất sâu sắc. Đó là hạt nhân của các tổ chức đoàn thể lúc bấy giờ. Bởi vì các tổ chức đoàn thể ở Cà Mau hầu hết là lực lượng nhân dân lao động. Vì thế các chủ trương, chính sách của Đảng đề cập đến người công nhân – lực lượng lao động nghèo thì nhân dân trong tỉnh rất phấn khởi – hưởng ứng chống lại kẻ thù.

“Hội công nhân cứu quốc” có tính chất quần chúng rộng rãi hơn “Hội công nhân phản đế”. Có nghĩa là trong một ngành nghề nào trong công nhân mà đánh Pháp chống Nhật, cứu nước, cứu mình ra khỏi cảnh nô lệ, đều có thể gia nhập “Công nhân cứu quốc Hội”. Từ đó kể cả những người làm phu cho Nhật cũng bãi công, chống lại Nhật…Đây là tổ chức rất rộng rãi, tạo cho người công nhân lao động đứng vào lực lượng cách mạng chống lại áp bức.

Chuẩn bị khởi nghĩa Hòn Khoai, Tỉnh ủy đã phân công đồng chí Phan Ngọc Hiển là đảng viên đến Hòn Khoai để nắm tình hình và chuẩn bị mọi điều kiện cho khởi nghĩa. Ngày 26/11/1940, Tỉnh ủy họp mở rộng tại Lung Lá Nhà Thể để bàn kế hoạch thực hiện Nghị quyết của Xứ ủy về khởi nghĩa Nam Kỳ. Đây là cuộc khởi nghĩa nêu cao vai trò lịch sử của giai cấp công nhân đối với dân tộc. Vì thế Tỉnh ủy đã chuẩn bị mọi điều kiện để hưởng ứng khởi nghĩa chung của Xứ ủy. Tuy cuộc khởi nghĩa nổ ra chậm so với các tỉnh trong Nam Kỳ, nhưng Đảng bộ quyết tâm chỉ đạo, lãnh đạo phong trào cách mạng trong tỉnh thực hiện kế hoạch của Xứ ủy. Vì thế các đồng chí đảng viên là đội tiên phong của giai cấp công nhân đang hoạt động trên mảnh đất tận cùng của Tổ quốc sẵn sàng khởi nghĩa và quyết tâm giành thắng lợi ở Hòn Khoai.

Thực hiện đúng theo kế hoạch của Tỉnh ủy chỉ đạo, ở khu vực I (Hòn Khoai – Năm Căn) khởi nghĩa trước. Có nghĩa là khởi nghĩa Hòn Khoai xong, kéo đến Năm Căn phối hợp với lực lượng Tân Hưng Đông tiếp tục chiếm lấy chợ Năm Căn để tổ chức cuộc mít tinh và thành lập chính quyền cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo (tức là các đồng chí đảng viên Đảng cộng sản). Đồng thời nghị quyết của Tỉnh ủy đã ghi rõ: Khu vực I, do đồng chí Quách Văn Phẩm, Thường vụ Tỉnh ủy cùng với đồng chí Phan Ngọc Hiển phụ trách ở Hòn Khoai và Năm Căn. Còn khu vực II ở thị trấn Cà Mau do đồng chí Trần Văn Thời, Bí thư Tỉnh ủy phụ trách; khu vực III tỉnh lỵ Bạc Liêu, do đồng chí Trần Văn Phán, Thường vụ Tỉnh ủy và Trần Văn Sớm phụ trách.

Đảo Hòn Khoai(19) cách đất liền khoảng 20 Km có diện tích 60 ha. Vào những năm 1938, bọn thực dân Pháp bắt dân đất liền ra đảo để làm phu và chở những tù nhân từ Phú Quốc sang để làm trụ đèn hải đăng trên đảo. Trong những ngày chúng bắt nhân dân làm phu, cuộc sống anh em lao động tại Hòn rất vất vả. Ngủ không có mùng chiếu, bệnh tật chúng bỏ phế, nước ngọt đi lấy ở xa (xuống chân Hòn). Vật liệu sắt, thép, xi măng chở từ đất liền đến, và bắt anh em làm sâu, khuân vác từ chân đảo lên đỉnh Hòn (cao trên 300m). Phải đi quanh co theo đá và tự mở đường đưa vật liệu lên. Vì thế các anh em tù nhân phải vượt qua những con đường đầy vất vả chưa khai phá. Cho nên nhiều anh em tù nhân khuân vác “ngất xỉu” trên đường; lại còn bị đòn roi, nạt nộ, chửi mắng của bọn cai quản đi theo canh giữ.Đèn Hải đăng Hòn Khoai, chúng dựng lên đã đổi biết bao xương máu của tù nhân và những người làm phu trên đảo.

Vào năm 1940, dân cư ở Hòn Khoai thưa thớt chỉ vài nhà ở dưới chân Hòn và những cụm ghe thuyền của bà con ngư dân đậu tránh sóng, hay tạm nghĩ ngơi chuẩn bị cho buổi đi đánh bắt tiếp. Bà con trên đảo tuy không nhiều, nhưng khi đồng chí Phan Ngọc Hiển đến, bà con rất ủng hộ thể hiện giàu lòng yêu nước, cho nên những gia đình trên đảo sớm trở thành là những cơ sở của ta.

Còn có tên xếp đảo Olivier (Ô-li-vi-ê) và tên phó đảo Róc-ker(20).

Các anh em công nhân trên đảo có một số người chúng đào tạo cơ bản về kỷ thuật điện đài và sử dụng máy nổ… Những người công nhân kỷ thuật trên đảo hầu hết là quê tại Rạch Gốc, con em lao động ngư dân của vùng đất rừng đước. Cho nên cũng thuận lợi cho đồng chí Phan Ngọc Hiển cùng anh Giai, chị Quýt và Bông Văn Dĩa, tuyên truyền, giác ngộ tinh thần yêu nước cho anh em công nhân. Quá trình đó, số anh em công nhân trên Hòn có tư tưởng tiến bộ và sẵn sàng vào đội ngũ tiên phong của giai cấp công nhân chiến đấu dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng.

Tại cuộc họp ở rẫy ông Hành (Hòn Khoai) vào lúc 8h ngày 13 tháng 12 năm 1940 để chuẩn bị cho khởi nghĩa. Nhân dịp này đồng chí Phan ngọc Hiển thay mặt chi bộ tuyên bố kết nạp 2 đồng chí Nguyễn Văn Đắc và Đỗ Văn Sến là công nhân điện đài vào Đảng cộng sản Việt Nam. Kết nạp 2 đ/c ngoài đám rẫy, trong buổi họp chuẩn bị cho tiến hành khởi nghĩa. tuy buổi kết nạp không băng cờ, chỉ tuyên bố của đ/c Phan Ngọc Hiển là từ đây công nhận 2 đ/c Đắc và Sến là người Đảng viên được danh dự chiến đấu dưới cờ Đảng. Các đồng chí im lặng và xúc động của người đảng viên mới, trước giờ phút ra trận, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc. Đây là sự kiện diễn ra khá đặc biệt trong bối cảnh chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa tại Hòn Khoai theo qui định của Tỉnh ủy (khu vực I). Cuộc họp diễn ra nhanh chóng, nhưng để lại dấu ấn sâu sắc, tạo niềm tin cho các chiến sĩ khởi nghĩa trước khi ra trận..

Theo kế hoạch của Tỉnh ủy và sự sắp xếp phân công cụ thể của đồng chí Phan Ngọc Hiển. Đúng 21 giờ ngày 13/12/1940. Tên xếp đảo Ô-li-vê từ nhà đến phòng điện đài để báo tin hằng ngày về bọn chỉ huy của Pháp ở Sài Gòn. Thì đồng chí Sến đã xông tới vật ngã tên xếp đảo Ô-li-vê. Sau đó tất cả lực lượng của ta cũng tập trung lại để vật tên Pháp to lớn. Nhưng hắn vùng vẫy, cho nên Anh Sến đã lấy cục đá to nện vào hắn để hắn bớt vẫy (mục đích để bắt sống về đất liền). Nhưng các đồng chí ném đá quá mạnh, cho nên tên xếp đảo Ô-li-vê chết tại chỗ. Sau đó các đồng chí xông vào nhà hắn lấy một khẩu súng ngắn và vào kho lấy súng và số quân trang quân dụng. Đặc biệt đồng chí Phan Ngọc Hiển lấy lá cờ tam sắc của Pháp đang để trong kho đem xé ra lấy phần vãi đỏ vẽ búa liềm (bằng nước sơn trắng); đồng thời viết dòng chữ trên tấm vãi đỏ còn lại làm tấm băng.

Thu chiến lợi phẩm xong, lực lượng khởi nghĩa xuống chiếc ca nô (thu được) và số ghe đánh cá đưa các đồng chí khởi nghĩa và bà con trên đảo về đất liền. Lực lượng khởi nghĩa và bà con rời khỏi Hòn Khoai vào lúc 5 giờ sáng. Khi chiếc ca nô chạy gần tới bờ lực lượng khởi nghĩa giương tấm băng có dòng chữ “Mặt trận phản đế Đông Dương muôn năm”, và lá cờ đỏ búa liềm bay phất phới trước buổi bình minh trên biển – hòa với niềm vui của đoàn quân chiến thắng trở về. Khi các đoàn quân khởi nghĩa đến đất liền không liên hệ được Tỉnh ủy như kế hoạch đã định. Đồng chí Phan Ngọc Hiển linh hoạt dẫn đoàn quân khởi nghĩa đi đánh tiếp đồn kiểm lâm và sau đó rút vào rừng để giữ gìn lực lượng. Qua mấy ngày vượt sông, băng rừng để bảo toàn lực lượng, không may các đồng chí khởi nghĩa đã bị địch bắt tại Khai Long sáng ngày 22 tháng 12 năm 1940. Cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai thắng lợi đã đánh dấu phong trào đấu tranh cách mạng của lực lượng quần chúng tỉnh nhà dưới sự lãnh đạo của đội tiên phong giai cấp công nhân là Đảng bộ tỉnh lúc bấy giờ. Đặc biệt là những đảng viên ưu tú đang hoạt động trên đảo Hòn Khoai. Thắng lợi khởi nghĩa Hòn Khoai còn có ý nghĩa rất lớn là cổ vũ phong trào cách mạng trong tỉnh nổi dậy dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng. Đồng thời nêu cao được bài học quý báu về tinh thần quyết tâm vượt mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ của những người cán bộ, đảng viên cộng sản.

V. TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG THỰC LỰC VÀ TIẾN TỚI GIÀNH CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG THÁNG TÁM

Sau cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai bọn địch đã tăng cường truy lùng những người liên quan đến cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai, và tăng cường đàn áp phong trào cách mạng trong tỉnh. Các tổ chức Công hội ở cơ sở lúc bấy giờ tạm thời lắng xuống không còn hoạt động. Các đồng chí lãnh đạo phong trào đã bị địch bắt, cơ sở cách mạng mất liên lạc như ở khu vực Năm Căn, Tân Hưng và tại thị trấn Cà Mau. Đây là thời kỳ các tổ chức Công hội và các tổ chức ái hữu; tổ chức chủ nghiệp đoàn đã ngưng hoạt động để chờ bắt liên lạc nhằm để cho tình hình ngày được dịu xuống. Từ thực tế đó mà các đồng chí lãnh đạo từng bước mốc nối liên lạc lại và gầy dựng phong trào cách mạng của địa phương.

Vì thế, vào tháng 01 năm 1941, theo nghị quyết của Xứ uỷ Tỉnh ủy đã quyết định thành lập căn cứ và xưởng sản xuất vũ khí. Đây là xưởng vũ khí được thành lập đầu tiên của tỉnh. Xưởng này tổ chức tại U Minh Hạ sau chuyển về Kinh Ba, Vĩnh Thuận. Xưởng do đồng chí Trần Văn Hưng (ông già của đồng chí Trần Văn Thời) phụ trách. Xưởng được thành lập chỉ có vài đồng chí, nhưng sản xuất phải liên lạc với bên ngoài để mua và vận chuyển vật liệu (ống sắt, đồng, thiếc) vào để sản xuất vũ khí thô sơ. Ngay tại thị trấn Cà Mau, đồng chí Nghê Thiện Húy (Năm xe lôi) là người đi mua ống sắt, thiếc chuyển vào vùng căn cứ để sản xuất vũ khí. Đây là sự cố gắng rất lớn của lực lượng xưởng làm vũ khí. Tuy lúc bấy giờ mới làm được những vũ khí thô sơ, nhưng các đồng chí “công nhân” đã sáng tạo làm ra những vũ khí với trình độ hiểu biết của mình. Lấy sự quyết tâm là chính để có phương tiện chống lại kẻ thù.

- Dù địch có tiếp tục đánh phá và ngăn chặn vùng thành thị với vùng nông thôn nhằm không cho ta chở hàng hóa vào căn cứ. Nhưng ta cũng khắc phục mọi khó khăn để thực hiện xây dựng hậu cần ở vùng căn cứ phục vụ cho kháng chiến ở tỉnh nhà.

Các đồng chí công nhân hoạt động ở Hòn Khoai bị địch bắt trong cuộc khởi nghĩa (13/12/1940). Những ngày các đồng chí bị địch bắt giam ở các khám (nhà tù) từ ở địa phương đến khám trực thuộc bộ máy đầu não của chúng. Các đồng chí bị chúng tra tấn rất tàn nhẫn nhằm buộc các đồng chí công nhân của ta phải khai báo, nhưng các đồng chí không tiết lộ một điều gì ảnh hưởng đến cách mạng.

Vì vậy, sau 6 tháng giam cầm, tra tấn dã nam của kẻ thù, các đồng chí vẫn giữ được khí tiết của người chiến sĩ cách mạng. Địch đành tuyên án ử hình 10 đồng chí.

Ngày 12/7/1941 bọn thực dân Pháp đã đưa các đồng chí chiến sĩ Hòn Khoai ra xử bắn tại sân vận động thị trấn Cà Mau (nay là khu vực công an thành phố Cà Mau). Trong mười đồng chí chúng dưa ra xử bắn hầu hết là các đồng chí công nhân làm việc điện đài và phục vụ cho đèn hải đăng. Đặc biệt có đồng chí Quách Văn Phẩm – thường vụ Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Văn Khuyên là đảng viên, cán bộ công nhân ở nhà dây thép của Pháp (gần Chùa Bà Cà Mau).

Danh sách 10 đồng chí bị địch xử bắn :

1.Đồng chí: Quách Văn Phẩm, Thường vụ tỉnh ủy.

2.Đồng chí: Phan Ngọc Hiển, người trực tiếp lãnh đạo khởi nghĩa Hòn Khoai.

3.Đồng chí: Đỗ Văn Sến.

4.Đồng chí: Nguyễn Văn Cự.

5.Đồng chí: Ngô Kinh Luân.

6.Đồng chí: Nguyễn Văn Đắc.

7.Đồng chí: Nguyễn Văn Đính.

8.Đồng chí: Đỗ Văn Biên.

9.Đồng chí: Nguyễn Văn Cẩn.

10. Đồng chí: Nguyễn Văn Khuyên.

Trước khi chúng bắn đồng chí Phan Ngọc Hiển và đồng đội, đồng chí Phan Ngọc Hiển hiên ngang trước kẻ thù dõng dạc nói: “Chúng tôi là những người cộng sản coi cái chết rất bình thường. Chúng tôi sẵn sàng chết để tranh đấu cho đồng bào được ấm no, nhất định người kế tục chúng tôi sẽ tiêu diệt thực dân Pháp! Nhất định Việt Nam, sẽ hoàn toàn độc lập!…” Và anh hô to, đồng đội của anh hô theo:

“Đả đảo đế quốc Pháp
Đông Dương độc lập muôn năm !
Đảng cộng sản Việt Nam muôn năm !"

Sau khi chúng xử bắn 10 đồng chí của chúng ta, chúng tưởng như dìm được phong trào cách mạng của nhân dân trong tỉnh. Nhưng không phải vậy, qua xử bắn dã man của chúng đối với các chiến sĩ thì lòng căm thù của các tầng lớp nhân dân, nhất là đối với lực lượng lao động ở các xí nghiệp, nhà máy và đội ngũ công nhân viên chức đã phẩn nộ bọn thực dân giết những người yêu nước. Từ đó các tổ chức hoạt động của ta ở thành thị và ven thị trấn Cà Mau đã bắt đầu xây dựng các tổ chức dưới dạng nhiều hình thức nhằm chống lại bọn đế quốc và tay sai theo tinh thần chủ trương của Đảng ta như: “Hội công nhân phản đế”, nằm trong mặt trận dân tộc thống nhất. Có nghĩa là các hội quần chúng xưa nay đều gọi “Hội cứu quốc” nhằm thực hiện mục đích phát huy tinh thần đấu tranh dân tộc.

Từ yêu cầu đó, ở tại tỉnh Bạc Liêu – khu vực Cà Mau tập trung vận động quần chúng vào các tổ chức Cứu quốc như “công nhân cứu quốc”, “Nông dân, thanh niên, phụ nữ cứu quốc…” nhưng công nhân cứu quốc ở Cà Mau tập trung vào các hoạt động của các Nghiệp đoàn bến xe, xí nghiệp, nhà máy xây lúa “Tam Tài” và những người lao động ở thành thị.v.v… Nhằm mục đích tập hợp lực lượng để thực hiện công tác tuyên truyền giáo dục theo đường lối chủ trương của ta trong tình hình mới. Như chủ trương của Tổng công hội Nam Kỳ đã nêu mục đích: “Đấu tranh cho hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến lên chủ nghĩa xã hội”(21).

Để chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám, Đảng ta đã nêu nội dung đấu tranh cách mạng cho phù hợp như nghị quyết TW lần thứ VIII đã nhấn mạnh: ”Trong lúc này không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(22).

Với tinh thần đó, tỉnh đã tập trung giáo dục giác ngộ trong nhân dân, nhất là đối với lực lượng lao động trong các khu vực ở Năm Căn, thành thị, đặc biệt là trong lực lượng khuân vác, nhằm tạo cho họ có ý thức cách mạng để góp phần đánh đổ bọn thực dân.

Năm 1943 – 1944 quần chúng đã tổ chức từng nhóm đấu tranh chống các loại thuế của địch và đòi giảm các loại thuế của người lao động. Mặt trận Việt Minh lúc bấy giờ đã lãnh đạo trực tiếp các Hội cứu quốc trong đó có nghiệp đoàn xe và nghiệp đoàn công chức. Đây là những Nghiệp đoàn làm cơ sở cho ta để tập hợp những những người lao động vào tổ chức nhằm để tuyên truyền giác ngộ họ phát huy lòng yêu nước, chống lại kẻ thù.

Đầu năm 1945, cuộc chiến tranh thế giới diễn ra ở giai đoạn cuối, mâu thuẫn sâu sắc giữa Nhật – Pháp ở Đông Dương ngày càng gay gắt. Như Bác Hồ nói: “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, quan điểm đó đã trở thành kim chỉ Nam cho giai cấp công nhân tiến tới cuộc khởi nghĩa cách mạng tháng Tám thành công.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ, các tầng lớp nhân dân cả nước, nhất là đối với tầng lớp công nhân đã phát huy sức mạnh của mình đấu tranh với bọn địch và rầm rập lên đường chống lại chúng – đòi quyền tự do và cuộc sống của mình. Ở Cà Mau, chuẩn bị cho khởi nghĩa, Tỉnh ủy đã phát động trong quần chúng với tinh thần nổi dậy cướp lấy chính quyền ở từng địa phương. Với khí thế của những ngày khởi nghĩa nhân dân trong tỉnh náo nức chuẩn bị mọi điều kiện theo hướng dẫn của các chi bộ cơ sở. Còn đối với lực lượng lao động đang khuân vác các nhà máy xay xát và các xí nghiệp (lò đường, nước mắm) cùng với các tầng lớp nhân dân ven thành thị xuống đường hưởng ứng ngày khởi nghĩa toàn quốc. Thị xã Bạc Liêu(23), thị trấn Cà Mau lúc bấy giờ đã diễn ra phong trào cách mạng của quần chúng; các tầng lớp nhân dân xuống đường kéo đến dinh tỉnh trưởng ở tại tỉnh lỵ và vây quanh dinh quận ở thị trấn Cà Mau.

Tại khu vực Cà Mau, Tỉnh ủy đã lãnh đạo quần chúng khắp nơi kéo đến thị trấn cùng bà con lao động tại chỗ đã trở thành áp lực bao vây tấn công dinh quận của chúng tại Cà Mau từ những ngày 23, 24, 25 tháng Tám. Đồng chí Tăng Hồng Phúc, chủ tịch Mặt trận Việt Minh của quận, đã tập hợp mọi lực lượng, nòng cốt của các Hội cứu quốc xuống đường, kéo chung quanh thị trấn để biểu dương lực lượng với cờ đỏ sao vàng, khẩu hiệu “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Đả đảo chánh quyền Trần Trọng Kim” và hô khẩu hiệu: “Chánh quyền về tay nhân dân”. Có những đoàn viên vừa đi vừa hát bài: “Chống phát xít” và bài hát “công nông binh”, tạo ra không khi sôi nổi ở các khu lao động. Đặc biệt là các hoạt động liên minh giữa lực lượng nông dân với những người lao động trong các xí nghiệp nhỏ ở thị trấn cùng với lực lượng trí thức đang sống ở thành thị cũng xuống đường hưởng ứng cuộc cách mạng tháng Tám.

Để chuẩn bị cho cướp chính quyền tại Cà Mau, đêm 24 tháng Tám, các đồng chí lãnh đạo phân công đồng chí Tám Hòa, Sáu Báu và đồng chí Bảy Muôn may cấp tốc (trong đêm) lá cờ đỏ sao vàng dài 5 mét, ngang 3 mét để treo trung tâm thị trấn.

Khi tên quận trưởng Nguyễn Văn Kế đầu hàng vô điều kiện (bị sức ép đấu tranh của nhân dân ta) các đoàn người xuống đường đã kéo đến tại trung tâm thị trấn Cà Mau, đồng thời kéo đến vây dinh quận của địch. 8 giờ, cuộc mít tinh khai mạc, lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên cột cờ trước khán đài; trên nửa vạn quần chúng im lặng lắng nghe đống chí Thái Ngọc Sanh, Bí thư quận ủy đọc diễn văn chào mừng ngày thắng lợi của dân tộc. Mọi người dự mít tinh ai nấy phấn khởi: lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta thoát khỏi ách nô lệ, đứng lên làm chủ quê hương đất nước của mình.

Thắng lợi cách mạng tháng Tám thành công trên quê hương Cà Mau đã đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của Đảng bộ và phong trào cách mạng của nhân dân trong tỉnh nói chung, công nhân và lực lượng lao động tỉnh nhà nói riêng; đã cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta.

Thắng lợi cách mạng tháng Tám, còn là niềm tự hào dân tộc ta nói chung, của giai cấp công nhân và những người lao động nói riêng; đồng thời tạo vị thế lớn cho đất nước ta như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Cách mạng tháng Tám là lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế mấy mươi thế kỷ, đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa lại chính quyền cho nhân dân, đã xây dựng nền tảng cho nước Việt Nam dân chủ công hòa, độc lập tự do hạnh phúc. Đó là cuộc nổi dậy cực kỳ to lớn trong lịch sử dân tộc”(24).

- Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám – 1945 thắng lợi. Đấy là sự biến động có tính chất nhảy vọt trong quá trình đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân chống chủ nghĩa đế quốc. Lần đầu tiên ở Việt Nam, cũng là lần đầu tiên ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến ở Đông Nam Á, giai cấp công nhân thoát khỏi ách nô lệ của bọn tư bản thực dân, phong kiến, đứng lên làm chủ cuộc đời của mình(25).

CHƯƠNG II PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO CÁCH MẠNG, TIẾN TỚI THÀNH LẬP CÔNG ĐOÀN TỈNH

Sau thắng lợi cách mạng tháng Tám, ta xây dựng chính quyền các cấp để lãnh đạo nhân dân trong tỉnh, nhất là tập trung xây dựng đời sống, văn hóa cho quần chúng. Đặc biệt là tạo công ăn việc làm cho quần chúng lao động ở thành thị và vùng ven đô thị; trong đó tiến hành củng cố các tổ chức cứu quốc để kịp thời lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ.

Ngày 25/11/1945, Trung ương Đảng đã ra chỉ thị “kháng chiến kiến quốc”, vạch rõ nhiệm vụ chủ yếu chống ngoại xâm và bọn tay sai; tăng cường cải thiện đời sống nhân dân. Thực hiện chủ trương của TW, Đảng bộ đã lãnh đạo các đoàn thể nhất là các tổ chức cứu quốc. Bởi vì lúc bấy giờ tình hình trong tỉnh chưa được ổn định, lại nhiệm vụ “kiến quốc rất lớn”, nhất là cùng với Đảng bộ thực hiện giảm tô 25% của Bộ canh nông. Đây là chính sách rất hợp lý được đại đa số quần chúng ủng hộ, đặc biệt các thành viên Cứu quốc. Từ đó tạo được phong trào cách mạng trong quần chúng lao động.

Cuối năm 1945, Tỉnh, quận đều có thành lập Ban chấp hành Công nhân cứu quốc của tỉnh do đồng chí Nguyễn Văn Lợi là Hội trưởng, đồng chí Trần Văn Ninh, ủy viên(26). Hội ra đời đã tập hợp được lực lượng lao động và những người làm các thợ thủ công trong các nghiệp đoàn trước đây để khôi phục lại thực hiện nhiệm vụ của kháng chiến. Cụ thể là phát huy ngành nghề của mình, đồng thời chống lại những chính sách hà hiếp, bóc lột của chính quyền thực dân, phong kiến ở địa phương.

Khi đất nước độc lập, Đảng và Bác Hồ đã nêu: Quyết tâm đem tất cả tinh thần, lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy. Vì thế đất nước ta dù có gặp khó khăn phải vượt qua như chống: giặc ngoại xâm, giặc đói, giặc dốt… nhưng dân tộc ta vẫn tin vào sự lãnh đạo của Đảng, Bác Hồ đưa đất nước ta đến thắng lợi.

Mặt trận Việt Minh đã tập hợp các tầng lớp nhân dân, nhất là giai cấp công nhân và người lao động để đấu tranh lại những âm mưu thủ đoạn của địch. Cho nên nhiều cuộc đấu tranh chính trị trực tiếp với bọn dựa thế tề, có quan điểm sai trái (ủng hộ thực dân) gây khó khăn cho ta. Tại các Xã Khánh Bình, Thới Bình, Tân Hưng và Tân Hưng Tây đã diễn ra những cuộc đấu tranh của những người lao động bị địa chủ bóc lột (thu tô, tức). Nhưng trong lúc này, khi cách mạng thành công một số địa chủ ở khu vực Cái Nước đã thể hiện sự giác ngộ nên giao số đất của chúng cho chính quyền cách mạng để phân phát lại cho nông dân không có ruộng. Đây là “địa chủ khai minh”.

Hưởng ứng “tuần lễ vàng” do Hồ chủ tịch đề xướng. Các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận đã hưởng ứng tích cực. Các thành viên trong Hội cứu quốc làm nòng cốt cho phong trào, nên quần chúng đã sẵn sàng đóng góp tiền, của để xây dựng đất nước trong tình hình khó khăn. Với tấm lòng vàng nhiều hội viên đã đóng góp rất tốt, có người lột cả tư trang (lễ cưới) của mình để hưởng ứng lời kêu gọi của Bác Hồ(27).

Ngày 06/01/1946, các hội viên của các đoàn thể cùng với nhân dân trong tỉnh và cả nước nô nức đi bỏ phiếu từ thành thị đến nông thôn vui như ngày hội. Đây là niềm vui của nhân dân ta nói chung, nói riêng đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đó là niềm sung sướng của mỗi người dân trực tiếp được chọn người đại diện của mình bầu vào Chính phủ. Tại tỉnh đã cử ra 3 đại biểu:

Bà Ngô Thị Huệ, đại diện cho các tổ chức Cứu quốc.

Ông Cao Triều Phát, đại diện cho Tôn giáo.

Ông Nguyễn Văn Đính, đại diện cho giới Trí thức.

Trong 3 đại biểu, bà Ngô Thị Huệ(28) là người đạt số thăm cao nhất.

Sau khi giành chính quyền, Đảng bộ đã tiến hành củng cố các tổ chức đoàn thể trong đó có tổ chức các nghiệp đoàn của anh chị em ở thị xã và thị trấn. Tuy tổ chức không nhiều, nhưng nó là cơ sở – nòng cốt cho phong trào yêu nước của người lao động ở mảnh đất cuối cùng cực Nam của Tổ quốc.

Theo chủ trương của Xứ ủy, và Tổng Công đoàn Nam bộ là tổ chức kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động ở trong vùng địch kiểm soát (dưới dạng hợp pháp). Cho nên lực lượng công tác ở thành thị khéo léo vận động quần chúng dự mít tinh công khai, mục đích là để ca ngợi ngày lao động công nhân quốc tế; đồng thời biểu dương lực lượng, đòi những yêu sách chính đáng cho người lao động làm công cho bọn chúng ở khu vực đô thị và Cà Mau.

Ngày 14/9/1946, Pháp đã ký Tạm ước với ta. Lợi dụng đó, ta vận động những cuộc đấu tranh trên các đường phố đòi chúng phải thực hiện các điều đã ký. Tại khu vực Cà Mau và tỉnh lỵ đã diễn ra từng tốp người xuống đường kéo đến nơi địch đóng, đòi chúng thực hiện những yêu sách và ngừng bắn.

Trong những năm sau cách mạng tháng Tám, Hội công nhân cứu quốc đã thành lập đồng thời cũng tiến hành được các Hội Ái hữu và nghiệp đoàn trong nhân dân lao động nghèo, các tổ chức này lúc bấy giờ ta thường gọi là tổ chức “vô sản” để tuyên truyền, giáo dục trong nhân dân lao động ở thành thị. Vì thế nhân dân trong các khu vực lao động từng bước được tiếp cận những quan điểm của giai cấp công nhân.

I. THÀNH LẬP TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN TỈNH (29)

Tháng 10/1946, thực hiện chủ trương của Tổng Công đoàn Nam bộ về việc tăng cường củng cố Công đoàn cơ sở để lãnh đạo lực lượng lao động thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Mặt Trận Việt Minh. Với tinh thần đó, tỉnh đã tiến hành thành lập các tổ chứcCông Vận. Nhiều quận đã tiến hành tổ chức bộ máy Công vận do cấp ủy lãnh đạo để nhằm thực hiện nhiệm vụ chính lúc bấy giờ là xây dựng, phát triển kinh tế, thực hiện “tăng gia sản xuất tự cấp, tự túc”, là một nội dung cơ bản đường lối kháng chiến của Đảng ta. Vì thế công tác Công Vận của tỉnh và quận kết hợp các tổ chức đoàn thể và xã hội vận động những người lao động trên các lĩnh vực trong tỉnh thực hiện với nhiệm vụ của Mặt trận Việt Minh đề ra.

Năm 1946, đồng chí Tào Văn Tỵ là cán bộ quân sự tỉnh được tin bà con Rạch Gốc vớt được trái thủy lôi trên biển, đồng chí đã đến xin bà con đem về cùng đồng đội cải tiến lại để đánh tàu Pháp trên sông. Từ vũ khí của địch, các đồng chí đem về lập “công xưởng” làm dưới dạng thủ công để cải tiến đánh tàu địch. Các đồng chí cải tiến đã thành công đánh chìm 3 chiếc tàu lớn của Pháp trên sông: Đầm Cùng, Mương Điền, Ao Kho, đã diệt hàng trăm tên địch và thu nhiều vũ khí, đạn dược góp phần cho kháng chiến của tỉnh. Đây là sáng kiến của tổ “thuỷ lôi”, cũng chính là sáng kiến của những công nhân đầu tiên dám cải tiến vũ khí ở “công xưởng” thô sơ để đánh địch đã thành công.

Hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ nhất (12/01/1947) đã quyết định thành lập các ty Quân giới của các khu trên cả nước. Nghị quyết đã ghi: “chế tạo vũ khí thô sơ (cung, tên, dao, súng kíp…) các khu phải tự tổ chức”. Nghị quyết đó được thực hiện, quân giới của tỉnh từng bước được xây dựng để kịp thời phục vụ cho kháng chiến. Sau đó Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam ra Nghị quyết:

Mở các cuộc thi đua sản xuất cho các xưởng vũ khí, các trại, xưởng tiểu công nghệ.

Đặt các giải thưởng sáng chế. Tích cực ủng hộ chương trình kinh tế kháng chiến của Chính phủ…

Thực hiện chủ trương của Đảng, hưởng ứng phong trào thi đua của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, quân giới Cà Mau đã mở ra những công trường sản xuất vũ khí thô sơ và lập những tổ chức tiếp vận các vật liệu làm vũ khí. Tỉnh đã tiến hành làm xưởng ở Cái Tàu, Biện Nhị đã được nhân dân ủng hộ đóng góp tiền, của cho “công nhân” (lúc đó ta gọi là cán bộ làm chất nổ) mua sẵn phương tiện hoạt động và sinh hoạt.

Ông Trần Châu Hoàng, ấp 2, Hàng Gòn (xã Khánh Lâm) đã nuôi xưởng Trà Vinh(30) suốt 2 năm (gia đình lo cả cơm gạo và thực phẩm). Trong lúc nầy bộ đội lưu động và các xưởng 9, xưởng 10 của khu đóng tại U Minh cũng được nhân dân địa phương đùm bọc, quan hệ chăm lo hậu cần cho các xưởng quân giới của ta. Đây là tấm lòng người dân lao động Cà Mau rất quan tâm lực lượng quân giới người làm nên vũ khí cho địa phương để góp phần kháng chiến. Trong toàn tỉnh có 19 công binh xưởng, tổ sửa chữa vũ khí, rờ sạc đạn, phục vụ cho bao vây đồn bót lúc bấy giờ.

Phải nói, những tổ chức trong quân giới (Thanh niên, Công đoàn) đã tạo nguồn động viên cho “công nhân” (nhân viên) hoàn thành nhiệm vụ với tinh thần là bộ đội thiếu súng đạn, là có tội. Vì thế phong trào thi đua kháng chiến trong quân cũng được đẩy mạnh.

Phong trào quân giới lúc bấy giờ tuy ít, nhưng đã góp phần rất to lớn phục vụ vũ khí cho những năm đầu kháng chiến ở tỉnh nhà. Đặc biệt là xuống cản, gài trái, ngăn tàu giặc trên sông như đắp cản Tấc Thủ, Đội Cường… và quân giới cũng được quần chúng ủng hộ (đóng góp lương thực, thực phẩm nuôi quân).

Đại hội Đảng bộ lần thứ II, năm 1948, đã bầu đồng chí Trần Văn Sớm làm Bí thư. Tỉnh ủy đã chủ trương tăng cường củng cố các đoàn thể, để tạo thực lực cho kháng chiến, và xây dựng vùng căn cứ, xây dựng cơ sở làm vũ khí phục vụ cho kháng chiến.

Năm 1947 – 1948, phong trào phục vụ cho kháng chiến trong tỉnh ngày càng phát triển. Vùng căn cứ của ta được xây dựng và củng cố. Các tổ chức đoàn thể, nhất là “Công đoàn cứu quốc” được phát huy trong cán bộ công chức và công nhân trong các xưởng quân giới. Lúc bấy giờ ở tỉnh đồng chí Huỳnh Bá Cang, làm Hội trưởng Công đoàn cứu quốc(31).

Nhiệm vụ của Công đoàn lúc bấy giờ là :

Tham gia động viên lực lượng đoàn viên Công đoàn góp phần tích cực vào nhiệm vụ kháng chiến của Đảng ta.

Phát động mọi hội viên hưởng ứng phong trào thi đua theo tinh thần của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam phát động.

Xây dựng lực lượng Công đoàn vững mạnh ở các ngành trong tỉnh, huyện; đặc biệt chú ý lực lượng trong công binh xưởng – quân giới và vận động quần chúng đóng góp của cải, vật chất, tiền bạc để mua vật liệu làm vũ khí kháng chiến.

Từ những nhiệm vụ nêu ra, Công đoàn ở các cơ quan và quận đã đề ra nhiều phương pháp tổ chức thực hiện. Vì thế các phong trào kháng chiến của quần chúng trong tỉnh được tham gia rất nhiều của các đoàn viên Công đoàn. Nhất là tham gia sản xuất, xây dựng quê hương; phong trào đời sống mới trong cơ quan và trường học, .v.v… từ đó hiệu quả công việc của anh chị em đoàn viên ngày có hiệu quả hơn. Như các xưởng công binh của tỉnh, và công trường của huyện, xã anh chị em tổ hợp thợ thủ công, thợ lò rèn, công nhân sửa chữa, chế biến, rờ sạc từng bước xây dựng thành đội ngũ công nhân có tay nghề khá.

Các công binh xưởng đã sản xuất được một số vũ khí cần thiết như Bajomine, FT, lựu đạn, Tomplon, súng ngắn, Lăng-xà-bom để phục vụ kịp thời cho chiến đấu ở chiến trường trong tỉnh. Tuy các binh xưởng trong tỉnh mới được xây dựng, nhưng được sự ủng hộ quần chúng, cộng với sự quyết tâm của anh em công nhân đã cung cấp được nhiều vũ khí tự tạo cho đánh địch trên chiến trường của tỉnh nhà. Đây là thành tích to lớn của lực lượng quân giới trong tỉnh đã góp phần tích cực phong trào thi đua của Tổng Liên đoàn Việt Nam phát động.

- Năm 1949, đồng chí Nguyễn Văn Lợi được phân công trở lại làm chủ tịch Công đoàn tỉnh, đồng chí Huỳnh Bá Cang làm phó chủ tịch và cùng với số đồng chí là ủy viên(32). Đến đầu năm 1950, đồng chí Nguyễn Văn Lợi được khu rút lên bổ sung vào Công đoàn khu. Lúc bấy giờ đồng chí Huỳnh Bá Cang làm chủ tịch Công đoàn tỉnh.

Quận Cà Mau và Ngọc Hiển tổ chức Công đoàn hoạt động khá mạnh, nhất là các xã ven thị xã, và Vĩnh Lợi, Giá Rai (nay thuộc tỉnh Bạc Liêu) phong trào đấu tranh lúc bấy giờ chống lại với bọn chủ các đồn điền của thực dân, chủ lò than, xí nghiệp quản lý muối, và thu thuế những người bán bưng.v.v…

Nhân kỷ niệm ngày 01 tháng 5 (ngày Quốc tế Lao động), các Công đoàn ban ngành cấp tỉnh như cơ quan Ủy Ban hành chánh kháng chiến, cơ quan Mặt Trận và các đoàn thể của tỉnh tổ chức sinh hoạt văn nghệ và báo cáo thành tích của Công đoàn. Và tiếp tục các hoạt động chào mừng kỷ niệm ngày sinh nhật của Bác Hồ (19 – 5). Các đơn vị quân y, dân y và các trường quân chính, trường văn hóa của khu đóng địa bàn Cà Mau đã tổ chức liên hoan văn nghệ, các tổ chức Công đoàn của các đơn vị có quà tặng khuyến khích những tiết mục để động viên học tập, công tác trong những ngày kháng chiến.

Ở tại quận Cà Mau, Công đoàn bám vào vùng ven đô thị để chỉ đạo phong trào đấu tranh của nhân dân lao động và những lực lượng làm mướn (khuân vác, làm công thợ) cho bọn chủ ở thành thị ức hiếp lao động. Có cuộc đấu tranh cuối năm 1949 ở thị trấn Cà Mau, bà con lao động đấu tranh chống lại tên quận trưởng không cho chở hàng hóa, thuốc uống vào vùng nông thôn (căn cứ của ta). Bà con lấy cớ là người dân lao động những lúc bị mưa gió cũng bệnh tật, cho nên phải có thuốc uống, chứ đâu phải tiếp tế cho Việt Minh. Đấu tranh nhiều lần buộc địch phải cho bà con chở thuốc uống vào vùng nông thôn.

Các Ban Chấp hành Công đoàn của quận, Ban ngành cấp tỉnh và các công binh xưởng trong tỉnh đã nêu nhiệm vụ tập trung cho kháng chiến; trước hết là tập trung cho tiền tuyến – phía trước để đánh địch. Từ đó những đoàn viên Công đoàn trẻ tuổi đã xung phong đăng ký vào lực lượng võ trang đi đánh giặc giải phóng quê hương, giải phóng đất nước. Nếu chỉ tính trong 2 năm 1948– 1950, các Ban ngành cấp tỉnh đã có trên 200 đoàn viên cùng với lực lượng thanh niên trong tỉnh tham gia các lĩnh vực: sản xuất, xây dựng góp phần kháng chiến thắng lợi. Đặc biệt nhiều đoàn viên lao động rất hăng say tạo được phong trào thi đua thanh niên lên đường cứu nước và tham gia các hoạt động của hậu phương...

Cuối năm 1949, Công đoàn tỉnh nhà được Công đoàn của khu chỉ đạo trực tiếp, trong đó có các cơ quan của khu 9 đóng trên địa phận tỉnh, bởi vì lúc bấy giờ các cơ quan của khu rút về đóng khu vực Cà Mau để đảm bảo an toàn. Trong lúc các hoạt động Công đoàn cơ quan của khu thường xuyên quan hệ Công đoàn các cấp của tỉnh để nắm tình hình và quan hệ công tác bảo vệ và đóng góp xây dựng đời sống văn hóa mới trên địa bàn mình đóng. Từ đó những hoạt động Công đoàn của tỉnh có sự phát triển, nhất là trong việc lãnh đạo hoạt động kháng chiến của đoàn viên Công đoàn nói riêng, nói chung lực lượng quần chúng, tạo được khí thế cách mạng trong vùng giải phóng.

Tháng 7 năm 1950, đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III, đã đánh giá tình hình chung trong tỉnh; trong đó đánh giá hoạt động và xây dựng các đoàn thể phục vụ cho kháng chiến. Đồng thời Đại hội đề ra những nhiệm vụ quan trọng là tập trung tấn công địch và xây dựng, sản xuất ở cả vùng giải phóng và vùng ven, quan tâm đến việc xây dựng Đảng và đoàn thể, Mặt trận; đồng thời Đại hội bầu các đại biểu của tỉnh cũng đặt ra việc củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của cán bộ viên chức các ngành cấp tỉnh. Có nghĩa là nâng chất giai cấp cho đội ngũ cán bộ. Trước hết là củng cố phát triển lực lượng Công đoàn từ tỉnh đến cơ sở để tạo thực lực cho cách mạng. Đại hội đã bầu đồng chí Trần Văn Sớm tiếp tục làm Bí thư Tỉnh ủy.

Thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ. Công đoàn của tỉnh đã tiến hành xây dựng kế hoạch nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Tuy địa bàn tỉnh lúc bấy giờ rộng (cả Bạc Liêu – Cà Mau hiện nay) có vùng tranh chấp giữa ta và địch, vùng đô thị, vùng giải phóng của ta.v.v… Nhiệm vụ Công đoàn tập trung giáo dục nêu cao tinh thần lao động, sáng tạo, thi đua yêu nước trong đội ngũ cán bộ, nhân viên chức; đồng thời tập hợp quần chúng lao động để giác ngộ cách mạng góp phần thực hiện nhiệm vụ kháng chiến của Đảng ta.

Vì thế trong 3 năm (1950 – 1951 – 1952) phong trào thi đua lao động sản xuất trong tỉnh đã đem lại những kết quả đáng kể. Mỗi năm có hàng triệu giạ lúa, đặc biệt các nhà máy xay xát mỗi tháng hơn 1.000 tấn gạo. Xây dựng được 16 lò đường, sản xuất được 460 tấn/năm. Các cơ sở xí nghiệp nước mắm được đẩy mạnh 3.000 lít/tháng. Đặc biệt là công nhân làm trong cơ sở (dầu dừa) làm xà phòng rất tích cực mỗi tháng ra cả tấn. Đây là cơ sở sản xuất xà phòng đầu tiên của tỉnh làm có hiệu quả. Và còn phát động rộng rãi trong quần chúng một số khu vực của Ngọc Hiển, Thới Bình, ven thị trấn Cà Mau trồng dâu nuôi tằm phục vụ cho dệt vải. Tỉnh tổ chức hợp tác xã trồng dâu ở Tuyền Huấn (Ngọc Hiển) góp phần cho các điểm dệt vải. Cả tỉnh lúc bấy giờ có trên 1.000 khung dệt, mỗi tháng sản xuất gần 500 m vải lụa và hơn 4.000 mét vải. Ngoài ra còn có các cơ sở lò vôi, 131 lò rèn, 1.500 khung dệt chiếu và cả ngàn trại mộc.v.v… Các cơ sở thủ công được phát triển trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp đã đánh giá sự cố gắng rất lớn trong việc khắc phục khó khăn về kinh tế-đời sống của nhân dân trong tỉnh.

Các cơ sở sản xuất của tập thể, tư nhân, nhà nước hoạt động khá mạnh. Nhưng nhiệm vụ Công đoàn lúc này là kết hợp các tổ chức đoàn thể và tổ chức chi bộ ở địa phương để lãnh đạo công nhân, nhân viên và quần chúng lao động ở các cơ sở sản xuất. Các tổ chức tư nhân, Công đoàn chỉ đạo thành lập các tổ lao động để quan hệ có tổ chức bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Đặc biệt là chú ý giáo dục tinh thần yêu nước cho quần chúng và thi đua sản xuất phục vụ kháng chiến nhằm thể hiện tính tự lực, tự cường, cung cấp cho vùng giải phóng (không lệ thuộc kinh tế của địch). Đó là thể hiện tinh thần tự lực tự cường của vùng giải phóng của ta.

Để đảm bảo cho chỉ đạo, Công đoàn tỉnh phân công cán bộ xuống các cơ sở sản xuất để nắm công nhân, nhân viên hoạt động nhằm để tổ chức Công đoàn. Vì thế đa số những nơi sản xuất có tính chất đông người được tổ chức Công đoàn do chi bộ nơi đó phân công đảng viên có trình độ qua làm thư ký Công đoàn để lãnh đạo sản xuất. Tổ chức Công đoàn từng nơi được thống nhất là Ban chấp hành bầu đồng chí thư ký (chịu trách nhiệm chung), phó thư ký phụ trách tổ chức, tư tưởng tài chính, 1 đồng chí phụ trách tuyên huấn, 1 đồng chí phụ trách sản– tiết (sản xuất, tiết kiệm) và đồng chí phụ trách thi đua.

Đồng thời còn thành lập các tiểu ban như:

- Ban học tập.

- Ban thi đua.

- Ban sản – tiết (sản xuất – tiết kiệm).

- Ban phòng gian bảo mật, tổ chức chống càn…

Bộ máy Ban chấp hành Công đoàn cơ sở (của các cơ quan, xí nghiệp) có những nhiệm vụ rất cụ thể của thời chiến ). Có nghĩa là Công đoàn lúc bấy giờ làm hai nhiệm vụ chính vừa lãnh đạo sản xuất, vừa làm công tác chiến đấu, bảo vệ.

Các ngày lễ kỷ niệm của dân tộc trong năm như ngày: 1/5, 19/5, 2/9 Công đoàn tỉnh đều kết hợp với ty thông tin, ty giáo dục tổ chức thể thao trong vùng kháng chiến. động viên các đoàn viên các cơ quan tham gia; đồng thời Công đoàn còn tổ chức treo giải thi đua cho các cơ sở Công đoàn bằng nhiều hình thức, nhất là phát động tinh thần học tập, tham gia nâng cao sản xuất lao động và sáng tạo trong các binh xưởng, trại sản xuất….

Qua phong trào thi đua sản xuất, nhiều đoàn viên Công đoàn được bồi dưỡng kết nạp vào Đảng – là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Đa số là đoàn viên của quân giới được bồi dưỡng kết nạp vào Đảng chiếm tỷ lệ trên 40% là cán bộ công nhân của xưởng. Đặc biệt là những thư ký Công đoàn (nay là chủ tịch Công đoàn) hầu hết là các cấp ủy, chi ủy cử sang được đoàn viên tín nhiệm. Từ đó phát huy tốt những hoạt động phong trào của Công đoàn trong các cơ quan và công binh xưởng, xí nghiệp…

Công đoàn trong tỉnh lúc bấy giờ ngoài việc góp phần động viên, giác ngộ cách mạng cho quần chúng lao động còn có trách nhiệm tham gia tích cực đẩy mạnh sản xuất trong kháng chiến nhằm phát huy tinh thần tự lực, tự cường để chủ động trong đời sống. Đồng thời còn quan hệ những cơ sở của ta từ thành thị đưa thuốc uống vào vùng giải phóng trị bệnh cho nhân dân. Quan điểm của ta là những mặc hàng nào ta tự sản xuất được là phát động quần chúng sản xuất. Từ đó phong trào thi đua sản xuất không chỉ trong hệ thống Công đoàn mà cả các tổ chức đoàn thể, Mặt trận.

Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh (1950), Tỉnh ủy chỉ đạo Công đoàn tỉnh thực hiện chủ trương của Đảng và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam chống lại những âm mưu của bọn tư bản như: không thực hiện theo chế độ lao động bằng mức khoán có nghĩa là chế độ “ăn công làm khoán” nhằm khép chặt lao động, bóc lột cao hơn. Đây là chế độ thâm độc của thực dân Pháp đối với lao động nước ta.

Với tinh thần đó, Công đoàn của tỉnh có kế hoạïch kết hợp với công tác thanh vận và địch vận để chống lại âm mưu của chúng đang thực hiện cho người lao động ở thành thị. Tại tỉnh lỵ các thị trấn trong tỉnh, nhất là thị xã Bạc Liêu thị trấn Cà Mau ta phân công người ra lãnh đạo quần chúng ở thành thị, tổ chức những cuộc đấu tranh chống lại âm mưu của địch từ thấp đến cao. Ngay năm 1951 đã có hàng chục cuộc đấu tranh với bọn chúng về việc khoán người lao động quá thấp như làm muối ở Long Điền (nay tỉnh Bạc Liêu) đào kinh ở khu vực Cái Nước, Đầm Dơi và đốn cây, vác cây (lâm nghiệp) ở khu vực Tân Ân, Năm Căn, Đầm Cùng, Cái Keo…

Đồng thời chống lại tổ chức mà địch lập lên để lừa mị nhân dân ta như chúng lập nên tổ chức: “Liên đoàn lao động công nhân tự sở” và “Tổng liên đoàn lao động Việt Nam”(33) do tên Trần Quốc Bửu cầm đầu. Đây là tổ chức hết sức phản động nhằm trực tiếp phá hoại và lái các phong trào công nhân, lao động đi vào con đường đấu tranh cải lương, thoả hiệp, đầu hàng địch. Chúng tung vào nhà máy xí nghiệp, đồn điền nhiều loại sách, báo, tài liệu phản động, bắt công nhân học tập để đầu độc về tư tưởng, như nói xấu chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô, xuyên tạc chính quyền cách mạng do chủ tịch Hồ chí Minh lãnh đạo. Chúng lợi dụng các tôn giáo để chia rẽ phong trào công nhân; xoá nhoà mâu thuẫn giai cấp, dùng những học thuyết tôn giáo phản động làm lá chắn để che đậy thủ đoạn bóc lột tàn nhẫn của bọn chủ tư bản đối với công nhân và quần chúng lao động(34).

Tỉnh ủy chủ trương cho Công đoàn cùng với Ban địch vận tổ chức bằng mọi hình thức phản bác những luận điểm sai trái, những lời lừa mị “Công đoàn” của địch làm mê hoặc tư tưởng quần chúng lao động trong tỉnh. Ta cũng rải truyền đơn vận động quần chúng thành thị chống lại những luận điểm xuyên tạc của địch đối với chế độ cách mạng– xã hội chủ nghĩa.

Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ nhất (1/1/1950) tại chiến khu Việt Bắc(35). Đại hội đã nhận được thư chào mừng của Công đoàn thế giới và đón thư của Hồ chủ tịch. Bác viết:

“…Theo ý tôi, những việc chính mà Đại hội phải làm là :

Tổ chức và huấn luyện toàn thể công nhân trong vùng tự do và trong vùng tạm chiếm.

Lãnh đạo công nhân xung phong thi đua ái quốc và chuẩn bị tổng phản công.

Đi đến tổ chức toàn thể lao động trí óc cũng như lao động chân tay.

Giúp đỡ, lãnh đạo công nhân về mọi mặt.

Liên lạc mật thiết với công nhân thế giới…"

- Trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc, trong sự nghiệp xây dựng nền dân chủ mới, giai cấp công nhân phải là người lãnh đạo. Vì vậy mỗi nam nữ công nhân phải cố gắng học hỏi, tiến bộ, phải cố gắng xung phong làm kiểu mẫu để làm tròn nhiệm vụ vẽ vang của giai cấp mình”(36).

Đại hội đã bầu đồng chí Hoàng Quốc Việt, Chủ tịch Tổng liên đoàn, Trần Danh Tuyên, tổng thư ký.

Và Nghị quyết đại hội đã nêu :

Tích cực cùng toàn dân chuẩn bị tiếp tổng phản công, tiêu diệt thực dân Pháp và bọn tay sai. Tăng cường sản xuất về mọi mặt, đẩy mạnh cuộc chiến tranh nhân dân; củng cố chánh quyền dân chủ nhân dân. Tích cực góp phần vào việc xây dựng quân đội nhân dân hùng mạnh. Xây dựng và phát triển chế độ uỷ ban xí nghiệp để lao động tham gia vào quản trị xí nghiệp ... Đồng thời tuyên truyền, động viên lao động và nhân dân thực hiện triệt để khẩu hiệu “cần, kiệm, liêm, chính” của Chủ tịch Hồ Chí Minh sắp tới tổng phản công và tổng phản công thắng lợi. Đây là những nội dung phát động rộng rãi cho Công đoàn toàn quốc tập trung đánh địch.

Đại hội lần thứ nhất của Công đoàn Việt Nam đã tạo niềm tin của giới lao động và công nhân nói chung, giới lao động và công nhân tỉnh nhà nói riêng; đồng thời đã cỗ vũ được phong trào cách mạng trong lực lượng Công đoàn trong kháng chiến. Phát huy thắng lợi của Đại hội. Công đoàn của tỉnh đã tổ chức cuộc hội nghị do Công đoàn khu xuống triển khai cho tỉnh. Và Ban chấp hành Công đoàn tỉnh đã ra Nghị quyết thực hiện nhiệm vụ của Tổng Liên đoàn Việt Nam trong thời kỳ tình hình mới – tổng phản công. Nghị quyết Công đoàn tỉnh là:

· Tích cực tham gia các phong trào kháng chiến, nhất là phong trào sản xuất và chiến đấu.

· Động viên mọi lực lượng của ngành cùng toàn dân tham gia tổng phản công của Đảng để giành thắng lợi.

· Vừa xây dựng và củng cố bộ máy Công đoàn, vừa xây dựng thực lực cách mạng, phục vụ cho kháng chiến thắng lợi.

Có nghĩa là nhiệm vụ của Công đoàn lúc bấy giờ tập trung dồn sức cho nhiệm vụ chính tổng phản công để giành thắng lợi. Vì thế nhiệm vụ của mỗi Công đoàn cơ sở và các cấp đều phải tập trung những nhiệm vụ chính của kháng chiến như Nghị quyết của tỉnh ủy đã nêu: “Đẩy mạnh tấn công địch về quân sự và ngụy vận, củng cố và mở rộng vùng giải phóng; bảo vệ vững chắc căn cứ địa kháng chiến; xây dựng vùng căn cứ của tỉnh vững mạnh về mọi mặt, đảm bảo là hậu phương vững chắc cho cả chiến trường Nam bộ”.

Chấp hành Nghị quyết của Tổng Liên đoàn và Nghị quyết của tỉnh ủy. Liên đoàn lao động của tỉnh đã tổ chức học tập quán triệt; đồng thới phát động mạnh mẽ trong lực lượng đoàn viên Công đoàn hãy nêu cao tinh thần cách mạng thà hy sinh tất cả, nhưng nhất định không chịu làm nô lệ. Và sẵn sàng lên đường chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước.

Với tinh thần cách mạng tiến công, các đoàn viên Công đoàn đã tham gia các phong trào thi đua sản xuất trong xưởng và sản xuất trong nông nghiệp đã cùng với nông dân đóng góp người của cho kháng chiến. Đặc biệt là vận động bà con vào tổ vạn vần đổi công trong tỉnh gần 1.000 tổ và 20 hợp tác xã nông nghiệp ở các huyện Ngọc Hiển, Trần Văn Thời, Cà Mau (lúc này Thới Bình, U Minh, Đầm Dơi chưa thành lập).

Năm 1952, đồng bào miền Đông bị lũ lục, với tấm lòng nhường cơm sẽ áo. Công đoàn cùng với các tổ chức đoàn thể đi vận động bà con, bộ đội nhịn bớt phần ăn của mình để dành cho đồng bào miền Đông với tấm lòng “lá lành đùm lá rách” để cùng chung đẩy mạnh cuộc kháng chiến sớm thành công. Đồng thời Công đoàn còn đi vận động thực hiện “hủ gạo nuôi quân”(37) để tạo nghĩa tình giữa quân và dân.

Đặc biệt vai trò Công đoàn lúc bấy giờ đã cùng với các đoàn thể của Đảng bộ đi xuống các địa phương trong tỉnh để thực hiện nhiệm vụ cấp đất cho quần chúng – nông dân; đồng thời tổ chức cho quần chúng tăng gia sản xuất, nhằm thực hiện lời dạy của Bác Hồ: “Thực túc binh cường”. Từ đó đời sống của quần chúng trong tỉnh từng bước được nâng lên để góp phần cho cuộc kháng chiến mau giành thắng lợi.

Năm 1952, công binh xưởng miền Tây về đóng ở Cà Mau, được bà con đùm bọc(38), các anh em công nhân hoạt động rất tích cực. Vừa sản xuất có sản phẩm phục vụ cho chiến trường, các đồng chí còn thực hiện phương châm cùng ăn, cùng ở, cùng làm và giữ gìn bí mật cho xưởng.

Để đáp ứng vũ khí kịp thời cho chiến trường và thực hiện Nghị quyết của TW, khu và tỉnh đã khẩn trương củng cố và phát triển công binh xưởng làm hậu cần vững chắc phục vụ cho tuyền tuyến.

Tại tỉnh đã tổ chức bộ phận hậu cần do đồng chí Nguyễn Văn Miên phụ trách; xưởng của tỉnh do đồng chí Ong Văn Nguyên làm giám đốc, Lâm Chánh Đức là cán bộ xưởng, Lâm Văn Bắc làm kế toán, tiếp liệu và thủ kho, Huỳnh Ngọc Điệp làm trưởng ban sưu tầm và tiếp liệu. Xưởng đóng ở Cái Bát, xã Tân Hưng Tây, huyện Cái Nước. Xưởng mới hình thành cơ sở vật chất còn thiếu, nhưng cũng cố gắng khắc phục khó khăn đi mua máy tiện và tận dụng các máy cũ, để có tiền mua nguyên liệu như Ta-rô-fi-e, Com-lắc cùng nhiều hóa chất khác. Và còn vận động nhân dân đóng góp sắt, thép, đồng, thao, để cung cấp nguyên liệu cho xưởng. Bà con đóng góp không đủ, các đồng chí còn bí mật ra chợ (vùng địch quản lý) để mua các nguyên liệu về cho xưởng. Thời kỳ này địch quản lý rất nghiêm ngặt nên sự chuyên chở cũng gặp nhiều khó khăn. Nhưng lực lượng của ta đã khắc phục khó khăn, tìm cách che mắt giặc chở nguyên liệu, vật liệu thường xuyên cung cấp cho cơ sở làm vũ khí của ta ở vùng giải phóng. Cùng thời gian này công binh xưởng dân quân và công binh xưởng công an tỉnh sát nhập lại nhằm phát triển năng lực và kỷ thuật sản xuất đáp ứng nhu cầu chiến đấu của quân dân trong tỉnh. Một nhịp điệu sản xuất vũ khí cả số và chất lượng thành đỉnh cao phong trào thi đua của các xưởng tỉnh và quân khu”(39). Từ đó tạo ra năng suất làm vũ khí phát triển mạnh. Cho nên tỉnh tiến hành làm các kho lưu động để đảm bảo bí mật và tạo thuận lợi cho di chuyển. Các kho ở Rau Dừa, Cái Giếng, Bà Đập, Rạch Cui.v.v…

Nhiệm vụ Công đoàn vận động quần chúng nhân dân đóng góp các nguyên liệu cho xưởng; đồng thời vận động các cơ sở, nhất là ở huyện, xã thành lập các xưởng để làm vũ khí phục vụ cho kháng chiến. Trong những năm 1951, 1952 và 1953 phong trào thi đua sản xuất vũ khí ở các xưởng và địa phương phát triển mạnh. Tạo được tinh thần cách mạng sẵn sàng phục vụ cho kháng chiến. Cho nên các đoàn viên Công đoàn của xưởng tỉnh, huyện được tổ chức bình chọn thi đua hàng năm đề nghị chính quyền khen; Đồng thời cũng khen quần chúng đã đóng góp sắt, thép, tiền mua nhiên liệu làm vũ khí như ở huyện Trần Văn Thời, Ngọc Hiển và số xã của Cái Nước.v.v…

Ngày 15/3/1953, Đại hội đảng bộ tỉnh lần thứ IV, là sự kiện chính trị của tỉnh đã tạo niềm tin và phấn khởi của Đảng bộ và quân dân trong tỉnh nói chung, nói riêng đối với những người lao động và lực lượng đoàn viên Công đoàn trong tỉnh. Đại hội lần này, Nghị quyết có đề cập nhiều vấn đề nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, trong đó nêu đến chăm lo đời sống cho cán bộ, đặc biệt là giáo dục tính giai cấp công nhân cho cán bộ, đảng viên để giữ vững lập trường, tích cực hoàn thành nhiệm vụ của mỗi người; và tiếp tục đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến. Đặc biệt là hưởng ứng chiến dịch Đông Xuân (1953 – 1954) của Đảng ta.

Thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, các ban ngành các cấp trong tỉnh đã dồn sức tập trung nhiệm vụ trọng tâm là tiền tuyến. Vừa thực hiện nhiệm vụ chung, vừa củng cố bộ máy của Công đoàn để tham gia đi vận động quần chúng đóng góp sức người, của cho kháng chiến. Cụ thể là thành lập các đoàn thể đi xuống cơ sở vận động tuổi trẻ vào bộ đội, dân quân du kích, nhất là những đoàn viên Công đoàn trẻ đăng ký lên đường, hoặc tích cực hoạt động đóng góp của cải đưa ra phía trước phục vụ cho tiền tuyến. Nhiều đoàn viên Công đoàn cơ quan đăng ký vào lực lượng võ trang và các tổ chức vận chuyển cho chiến trường, tham gia phong trào xây dựng ấp, xã chiến đấu ở vùng nông thôn, vùng ven. Vận động quần chúng đóng góp tiền của cho tiền tuyến. Cán bộ Công đoàn được phân công bám vùng ven để quan hệ (móc nối) bà con thành thị, gởi tiền vào đóng góp cho kháng chiến. Công đoàn tổ chức tuyên truyền những tin chiến thắng của ta cho đoàn viên biết, đồng thời còn chú ý bồi dưỡng chính trị cho đoàn viên.

Trong năm 1952 – 1953, Công đoàn đã mở rất nhiều lớp tập huấn, nghiệp vụ và còn liên kết bồi dưỡng chính trị, thời sự cho anh chị em công tác Công đoàn của ban ngành và các cơ quan – công binh xưởng. Đồng thời còn kết hợp với các ban ngành tổ chức thực hiện nhiệm vụ trung tâm của tỉnh ủy. Như đi vận động, tuyên truyền, giáo dục quần chúng, đi cấp đất, đi thu thuế và đi vận động thanh niên lên đường vào bộ đội, xây dựng đời sống mới ở nông thôn.v.v...

Ngày 26/4/1954, Hội nghị tỉnh ủy mở rộng đã tập trung những công việc nóng bỏng nhất của đất nước là phải tập trung phối hợp với chiến dịch Điện Biên Phủ, hội nghị này bầu đồng chí Võ Văn Kiệt, Bí thư tỉnh ủy, thay cho đồng chí Ung Văn Khiêm được cấp trên rút. Hội nghị tập trung số vấn đề quan trọng trong đó có công tác chính trị tư tưởng: là đã phá tư tưởng cầu an, ngại khó, hữu khuynh sợ giặc, không tích cực tấn công và khắc phục tư tưởng coi nhẹ bồi dưỡng sức dân, giúp đỡ và bảo vệ nhân dân.

Với tinh thần Nghị quyết của Tỉnh ủy, Liên đoàn lao động tỉnh đã triển khai trong hệ thống Công đoàn và cán bộ công chức nhà nước. Đặc biệt là lấy tư tưởng và tinh thần cách mạng của giai cấp công nhân để giáo dục đoàn viên công nhân; và đưa đoàn viên (cán bộ Công đoàn) dự học tập các lớp do Ban tuyên huấn tỉnh tổ chức và học trường Đảng của tỉnh. từ đó tạo được nguồn cán bộ trong công tác tuyên truyền của ngành.

Những ngày của tháng 4 năm 1954, nhân dân trong tỉnh nói chung, cán bộ và đoàn viên Công đoàn luôn luôn theo dõi những chiến công từ tiền tuyến của các tỉnh và Điện Biên Phủ. Ngày 7/5/1954 các binh đoàn chủ lực của ta đã tiêu diệt hoàn toàn cứ điểm Điện Biên Phủ, bọn thực Pháp buộc phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ, lập lại hòa bình ở Đông Dương.

Hòa với niềm vui cùng cả nước, nhân dân Cà Mau nói chung, nói riêng lực lượng đoàn viên Công đoàn nơi mảnh đất tận cùng cực Nam của tổ quốc đã náo nức băng cờ, khẩu hiệu cùng quần chúng xuống đường chào mừng đất nước lập lại hòa bình. Đồng thời luôn luôn cảnh giác những âm mưu thủ đoạn của kẻ thù trong lúc miền Nam địch tạm thời còn quản lý.

II. CÔNG ĐOÀN GÓP PHẦN THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, CHÍNH TRỊ CỦA KHU TẬP KẾT 200 NGÀY Ở CÀ MAU

Theo qui định của Hiệp định thì tỉnh Bạc Liêu (nay là Cà Mau – Bạc Liêu) là vùng tập kết 200 ngày của lực lượng kháng chiến Nam Bộ bao gồm một số vùng giải phóng cũ và số thị trấn; vùng mới giải phóng như thị trấn Cà Mau, Tắc Vân, Giá Rai và số chợ nhỏ. Nhiệm vụ chính của thời gian này được tỉnh ủy nêu ra là: Tập trung sữa sang sạch đẹp và giữ gìn trật tự an ninh, xây dựng chính quyền, đoàn thể; tổ chức các hoạt động văn hóa, làm cho vùng ta quản lý thể hiện rõ bản chất của chính quyền cách mạng.

Từ nhiệm vụ đó, các đoàn thể nói chung, nhiệm vụ Công đoàn nói riêng đã nâng cao tính giai cấp vô sản cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên Công đoàn. Có nghĩa là giữ vững lập trường, tích cực tham gia các hoạt động chính trị, văn hóa; đặc biệt đi sâu vào vùng ta mới tiếp quản để tham gia cùng đoàn thể làm công tác tuyên truyền, giáo dục quần chúng; đồng thời xây dựng lực lượng tại chỗ ủng hộ chính quyền của ta; đặc biệt là chuẩn bị lực lượng cốt cán của ta có tư tưởng – bản lĩnh vững vàng để sau khi hết thời gian quy định ta phân tán lực lượng đưa vào trong bộ máy địch làm cơ sở cách mạng của ta.

Các công việc lúc bấy giờ đã diễn ra là đi làm công tác dân vận, tập hợp lực lượng trí thức, học sinh, những người lao động ở thành thị để giác ngộ cách mạng cho những đối tượng này. Đồng thời tổ chức đi sâu vào những công nhân viên chức của nhà máy đèn, các xí nghiệp để giáo dục và nêu cao tinh thần trách nhiệm của mình để phục vụ cho nhân dân, cho chính quyền cách mạng. Và giáo dục quần chúng giữ trật tự an ninh, xem đó là nhiệm vụ trung tâm của Công đoàn lúc bấy giờ.

Khi địch bàn giao khu tập kết cho ta, khẩu hiệu băng cờ đỏ rực khắp đường phố.

Khẩu hiệu :

- Hoan hô hòa bình lập lại ở Đông Dương.

- Đảng lao động Việt Nam muôn năm.

- Hồ Chủ Tịch muôn năm.

- Nước Việt Nam độc lập, thống nhất dân chủ, hòa bình muôn năm.

Các tầng lớp nhân dân ở nông thôn và thành thị đã náo nức kéo đến sân vận động để dự mít tinh chào mừng ngày hội chiến thắng. Nhân dân lao động và công nhân thành thị không cầm được nước mắt khi vui mừng được gặp gỡ chính quyền cách mạng và những chiến sĩ, cán bộ của chúng ta.

Ngày 12/9/1954, Tỉnh ủy triển khai quán triệt tình hình nhiệm vụ, phương châm sách lược mới, cho nên tỉnh ủy đã trưng dụng nhiều cán bộ ban ngành cấp tỉnh trong đó có cán bộ Công đoàn tỉnh để đi tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân và làm công tác tư tưởng ai đi, ai ở (nghĩa là chọn người đi tập kết và người ở lại). Và xây dựng nòng cốt của ta (là lực lượng ở lại) để cố giữ hợp pháp với địch. Lúc bấy giờ các tổ chức Công đoàn ở vùng tự do và vùng ven ta nắm lại để chọn nòng cốt theo chủ trương của Đảng.

Công đoàn ở vùng tự do (vùng giải phóng) cùng với quần chúng chăm lo xây dựng trường học, chăm lo sức khỏe nhân dân (xây dựng các trạm y tế), còn vùng ta mới quản lý, cùng các đoàn thể đã xây dựng và củng cố lại các công sở địch bàn giao. Đặc biệt Công đoàn đi vận động các công nhân làm điện, nước chăm lo cho đời sống nhân dân vùng mới giải phóng (ta mới tiếp quản).

Những ngày ta mới quản lý, uy tín của chính quyền cách mạng ngày được nâng cao. Và họ thấy vai trò lãnh đạo của Đảng xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam. Tuy ta quản lý không lâu, nhưng tác động về chính trị đối với quần chúng và đối phương là rất lớn. Đó là thắng lợi của Đảng bộ và quân dân Cà Mau trong những ngày tập kết 200 ngày.

Ngày 30/01/1955, những công việc hành chánh ở khu tập kết ta đã bàn giao đối phương (theo qui định – Hiệp định). Lực lượng tập kết của ta xuống tàu Kilixki cuối cùng ở cửa sông Ông Đốc huyện Trần Văn Thời vào ngày 08/3/1954. Buổi tiễn đưa cuối cùng đầy lưu luyến người ở – người đi và hẹn nhau ngày gặp lại “Bắc Nam sum hợp một nhà”.

CHƯƠNG III PHONG TRÀO CÔNG NHÂN VÀ LAO ĐỘNG CÀ MAU TRONG THỜI KỲ CHỐNG MỸ

I. TÌNH HÌNH CÔNG NHÂN VÀ LAO ĐỘNG CÀ MAU ĐẤU TRANH CHỐNG ĐỊCH (1954 – 1968)

Sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ đã hất chân Pháp và tiến hành thực hiện ý đồ xâm lược của Mỹ ỡ Việt Nam (trực tiếp là miền Nam Việt Nam). Cho nên chúng đã tiến hành tìm mọi cách để phá Hiệp định. Đồng thời xây dựng bộ máy cai trị của chúng ở miền Nam. Ngày 7/7/954, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm lên làm Thủ tướng thay tên Bửu Lộc. Đồng thời đưa vào miền Nam những tên cố vấn Mỹ khoản 200 tên và đến tháng 7/1956 chúng tăng lên tới 1600 tên; với nhiều phương tiện vũ khí và kỹ thuật quân sự. Chúng đã đưa vào miền Nam Việt Nam 1,5 tỷ đôla (1955 – 1960) dưới hình thức “viện trợ thương mại” nhằm mục đích xây dựng quân sự và chính quyền tay sai. Để biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa của Mỹ – Căn cứ quân sự của Mỹ để ngăn chặng chủ nghĩa công sản ở Đông Nam Châu Á.

Còn ở tại tỉnh Cà Mau, sau khi ta bàn giao toàn bộ khu tập kết cho đối phương. Địch đã tiến hành cho đóng đồn, bót ở các tuyến quan trọng, đặc biệt là thị xã, các thị trấn. Đồng thời đưa quân đóng đến đâu thì tổ chức gầy dựng bộ máy cai trị đến đó. Vì thế chúng đã xây dựng bộ máy hành chánh và các tổ chức phản động như “lực lượng bảo vệ hương thôn”, “thanh niên cộng hòa” để dùng lực lượng này đánh vào người kháng chiến. Còn ở thành thị chúng chọn những đối tượng giàu có và thân thiết với chế độ “cộng hòa” của chúng để làm tay sai. Đặc biệt là chúng tạo điều kiện cho các nhà máy và các xí nghiệp có sự chi phối kinh tế của tỉnh lúc bấy giờ. Có nghĩa là chúng tìm mọi cách khôi phục giai cấp tư sản và địa chủ làm tay sai cho chúng.

Tuy ở khu vực Cà Mau chưa có nhà máy, xí nghiệp nào lớn, nhưng ý đồ, tư tưởng của các nhà cầm quyền Mỹ – Diệm vẫn chỉ đạo phát triển kinh tế thương mại thành một hệ thống để kết hợp các công ty tư bản nước ngoài nhất là các công ty của Mỹ hoạt động ở miền Nam Việt Nam nhằm để lấy lợi nhuận (bót lột) sức lao động rẻ mạt của nhân dân lao động. Cho nên chúng tiến hành các thủ đoạn thâm độc là bắt công nhân làm việc không phải 8 giờ mà lên đến 10 – 12 giờ. Sự thật đó là tờ báo Cách mạng quốc gia của Diệm (số ra ngày 25/5/1959) viết: “Công nhân bị bắt làm việc trung bình 11 giờ một ngày, chủ nhật không được nghỉ và quanh năm cũng không có ngày lễ …”. Tuần San phòng thương mại Sài Gòn số ra ngày 20/10/1959 đã chỉ rõ: “Người ta không còn lạ gì khi thấy một nữ công nhân mỗi tuần luân phiên làm ba loại nghề khác nhau: 3 ngày làm ở hãng thuốc lá, 4 ngày làm nghề dệt, ban ngày và ban đêm phải gánh chè cháo đi bán rong. Chúng ta chú ý người công nhân này làm việc 7 ngày liền trong một tuần lễ với số giờ thì không thể kể được”(40) .

Qua những tư liệu đó, đã cho chúng ta thấy chế độ tư sản không bao giờ không nghỉ đến sự bóc lột sức lao động của công nhân, và những người lao động ở đất nước ta. Vì thế các chủ nhà máy, xí nghiệp và bọn thầu ở khu vực Cà Mau dựa vào bộ máy cai trị của Mỹ – Nguỵ để chèn ép, trả tiền lao động rẻ mạt và thậm chí hâm doạ là có quan hệ “Việt Cộng”.v.v.... để công nhân, người lao động phải tuân thủ những quy định tự chúng đặt ra...

Trong những năm 1957, 1958, tại Cà Mau chúng theo dõi những người lao động đi khuân vác, hoặc xin đi vào làm việc trong các cơ sở sản xuất, làm công những nơi công cộng của chúng... Bởi vì, chúng sợ ta “cấy” cơ sở của ta vào (giả vờ đi làm mướn) sẽ gây mất trật tự an ninh hay theo dõi hoạt động bộ máy của chúng để báo lại ta, làm bất lợi cho chúng. Cho nên địch tập trung lực lượng an ninh (tình báo) theo dõi những người lao động của một số khu vực thị xã, thị trấn, nhất là những nơi lao động gần đồn bót của địch. Đặc biệt là thời kỳ chúng thực hiện luật 10/59 là “đưa cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”. Có nghĩa là ai mà chúng tình nghi cộng sản là đưa ra tử hình, nhằm tạo áp lực dằn phong trào cách mạng của quần chúng.

Khi địch tung ra luật 10/59 chúng lại theo dõi chặt chẽ và bằng nhiều hình thức đối với người đang lao động ở các khu vực thành thị lẫn nông thôn. Nhất là lực lượng đấu tranh hay những hình thức gì phản đối lại chúng. Cho nên những năm địch thực hiện luật 10/59, các cơ sở cách mạng của ta hoạt động trong các tổ chức lao động ở thành thị và thị trấn không hoạt động được, thậm chí bị phá vỡ. Đây là thời kỳ khó khăn của phong trào cách mạng trong tỉnh. nhiều đồng chí ta bị lộ, bị bắt và chúng đưa ra tử hình (tế cờ) như ở Cái Nước, Trần Văn Thời, Thới Bình, Đầm Dơi và số cứ điểm đồn bót của giặc (Sông Đốc, Viên An, Tân Đức.v.v.)

Từ đó cũng tác động nhất định đến tư tưởng của anh chị em lao động, khuân vác ở các nhà máy xay xát (chà lúa) và số công nhân nhà máy đèn của địch, các nhà máy cưa, đóng xuồng.v.v... Có nghĩa là nhân dân lao động, công nhân thành thị và quần chúng trong tỉnh lo lắng cho phong trào đấu tranh cách mạng của tỉnh nhà. Đây là thời kỳ có thể nói là rất bi đát mà tưởng chừng Đảng bộ Cà Mau vượt qua không nổi. Nhưng được sự đùm bọc, che chở, giúp đỡ của quần chúng tạo điều kiện cho phong trào cách mạng trong tỉnh từng bước khôi phục và củng cố lại, nhằm tạo thế, tạo lực mới những nơi khu vực thành thị và nông thôn. Nghị quyết 15 của TW đã ra đời chỉ rõ: Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài của đế quốc Mỹ. Và Nghị quyết đã chỉ rõ: dùng sức mạnh của quần chúng kết hợp với lực lượng võ trang để đánh đổ chính quyền thống trị của đế quốc phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân.

Quán triệt tinh thần Nghị quyết của Đảng, Tỉnh ủy chỉ đạo đấu tranh chính trị kết hợp với võ trang. Vì thế công tác đoàn thể và công vận bám sát quần chúng cả 2 khu vực nông thôn và thành thị để vừa đấu tranh chánh trị với địch vừa thực hiện võ trang trừng trị những tên ác ôn. Đặc biệt là chú ý những cơ sở cách mạng vùng địch tạm chiếm để làm nồng cốt đấu tranh từ nông thôn kéo ra để chống lại những âm mưu, thủ đoạn giết người của Mỹ – ngụy.

Thực hiện Nghị quyết 15 của TW, Tỉnh ủy đã ra lời hiệu triệu:

“...Hỡi đồng bào, bấy lâu nay ngậm đắng nuốt hờn. Đã đến lúc chúng ta phải vùng dậy. Chúng ta không thể sống dưới cảnh khủng bố, đàn áp, bị bắt, bị giết lúc nào không hay, sống nay chết mai...”. Và Tỉnh ủy cũng kêu gọi binh sĩ ngụy đứng lên khởi nghĩa: Tất cả hãy đứng lên, sắm sửa vũ khí đứng lên, lấy vũ khí địch mà đánh lại địch; hãy trừ khử bọn ác ôn giành lại xóm làng.

Lời hiệu triệu Tỉnh ủy, ta in ra rải truyền đơn ở vùng ven, đô thị (nơi địch quản lý) nhất là ta chú ý đến các khu lao động để quần chúng có ý thức ủng hộ cách mạng; đồng thời công tác thành(41) cũng rãi rác đồn bót và các khu hành chánh của địch trong tỉnh, nhằm chống lại “Lý tưởng quốc gia” của địch mà chúng đang thực hiện trong các bộ máy ở các cấp. Đặc biệt là chúng tiến hành thành lập “Tổng cục chiến tranh chính trị”, “Tổng cục Dân vận và chiêu hồi”... Thực chất là những cơ quan mật vụ và áp đặt tư tưởng chống cộng. Vì thế những hoạt động ở thành thị ta tập trung phản bác những tư tưởng “Lý tưởng quốc gia” trong các công chức, viên chức, lực lượng công nhân của chúng. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng của công tác công vận lúc bấy giờ.

Khi Mỹ – Diệm thực hiện chiến tranh đơn phương ở miền Nam Việt Nam, chúng tìm mọi cách nắm những đối tượng công nhân và người lao động để tách đối phương (cộng sản) không nắm được. Cho nên chúng bồi dưỡng người cầm đầu của Tổng liên đoàn lao động là Trần Quốc Bửu huấn luyện đoàn viên chống cộng. Vì thế chúng đã tuyên bố: “Mỗi người lao động phải là một chiến sĩ chống cộng, có nhiệm vụ ngăn chặn âm mưu của cộng sản dùng nghiệp đoàn để gây bất ổn xã hội lật đỗ chính quyền trong giai đoạn sắp tới. Tại Việt Nam Cộng Hòa, Nghiệp đoàn phải nắm cho được giới công nhân, thợ thuyền để kháng cộng và làm thế nào để đạt được tình trạng cứ để cho cộng sản công khai mà cộng sản nói không ai thèm nghe”(42).

Những tư tưởng nêu trên, bọn chúng muốn tổ chức Công đoàn là công cụ để chống lại cộng sản trên bất cứ nơi đâu và ở vị trí nào. Đặc biệt là chúng mở những cuộc học tập cho các đoàn viên trong giới trí thức, nhân viên bộ máy của chúng về “Tố cộng”, làm tờ ly khai cộng sản, hoặc xuyên tạc, nói xấu miền Bắc (XHCN) để thành lập ý thức chống cộng trong đoàn viên Công đoàn ở thành thị.

Các khu vực hành chánh của tỉnh An Xuyên bắt buộc phải học tập những tài liệu “chống cộng” và tiến hành thành lập Ủy ban tố cộng ở cấp quận và các Hội đồng xã. Nhưng chúng chú ý những cán bộ công nhân viên chức của chúng có thân nhân, hoặc có quan hệ với lực lượng cách mạng là bị theo dõi và đưa ra khỏi bộ máy Ngụy quyền. Đặc biệt là chúng dùng máy chém, tế cờ (giết người dã man) hoặc đưa hàng loạt cán bộ ta ra tử hình trước quần chúng. Để vừa nhằm dằn phong trào cách mạng, vừa làm cho những công chức của địch không dám tham gia cách mạng chống lại chúng.

Trước tình hình đó, Ban Công vận chỉ đạo các tổ chức hoạt động trong hàng ngũ địch, hoặc công tác ở thị xã, thị trấn – nơi địch quản lý, tranh thủ và vận động quần chúng đấu tranh chống lại những âm mưu thâm độc của địch, nhất là tranh thủ những gia đình binh sĩ, hoặc những binh sĩ tiến bộ để tập hợp lực lượng phản đối những chính sách phát xít của Mỹ – Diệm và đời tự do cơm áo, đòi hòa bình thống nhất.v.v.. Đồng thời đòi tự do Nghiệp Đoàn, lập Hội, chống đuổi nhà dân làm khu quân sự… Nói tóm lại ở dạng này dạng khác.

“Anh em công nhân còn biết lợi dụng những dịp mà Diệm không dám cấm đoàn viên dự lễ kỷ niệm Quốc tế lao động 1/5, để tổ chức tố cáo chế độ phát xít của chúng đối với lao động. Để chuẩn bị kỷ niệm ngày 1/5/1958, ngay trong tháng 4 anh em đã dùng diễn đàn của Tổng Liên Đoàn Lao Động mở đại hội mời các Nghiệp đoàn cơ sở hợp thông qua kế hoạch, thông qua tuyên bố và tố cáo chế độ Diệm. Lê Văn Năm (tức là đồng chí Đoàn Văn Thới, cán bộ Công vận nằm vùng tại Tổng Liên Đoàn Lao Động) đọc trước hội trường Tổng Liên Đoàn Lao Động, các đại biểu dự chật ních để nghe bức thư của nông dân Cà Mau nói lên tình cảm bị cướp đất, bị hãm hiếp rất đau thương đã làm cho các đại biểu xúc động nhiều người rơi nước mắt.”(43)

Sau ngày 01/5/1958, bọn chúng lấy cớ Nghiệp đoàn dân cày Cà Mau không xin phép, cho nên chúng giải tán. Và chúng bắt đồng chí Đoàn Văn Thới bỏ tù 3 năm và cấm các hoạt động dưới hình thức Nghiệp đoàn.

Vào những năm 1958 – 1959, tại tỉnh lỵ Cà Mau chúng “úp bộ” Công đoàn vàng bắt mọi viên chức của chúng phải vào và tuyên bố lừa mị “Nghiệp đoàn không làm chánh trị”, “Thăng tiến cần lao, đồng tiến xã hội”. Và tên Trần Quốc Bửu, phó bí thư đảng cần lao nhân vị, Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động Việt Nam nói: “một đoàn thể kháng cộng”, mỗi đoàn viên Công đoàn phải là chiến sĩ chống cộng. Chính quyền Mỹ – Ngụy đã thành lập các tổ chức để lừa mị, thực chất là công cụ phục vụ chính sách, quyền lợi của chế độ “cộng hòa” để chống lại cách mạng.

Tuy các tổ chức địch nặn ra để làm công cụ phục vụ chính trị cho chúng ở tỉnh Cà Mau trong những năm 1958 – 1959 không phát huy được. Bởi sự nổi dây của quần chúng ở nông thôn giết những tên địch ác ôn, những hội đồng xã gian ác đã bị trừng trị, thậm chí quận trưởng Nguyễn Văn Hai ở Thới Bình, quận trưởng Lê Phú Nhung ở Đầm Dơi cũng bị ta trừng trị làm cho tinh thần bộ máy của địch lo sợ và co cụm nhất là bộ máy hành chánh và các tổ chức phản động được thành lập ở tại tỉnh và quận.

Khi cả tỉnh hưởng ứng lời Hiệu triệu của tỉnh ủy nhiều nơi trong tỉnh đã dùng vũ khí kết hợp đấu tranh chính trị trừng trị những tên gian ác. Đồng thời tổ chức các lò rèn biến thành “Công binh xưởng” làm vũ khí thô sơ hoặc sữa lại những khẩu súng cũ. Ở tại Mõ Đải, huyện Cái Nước lò rèn làm vũ khí do đồng chí Phan Văn Diệp, Hồng Kim Cân và đồng chí Hai Huỳnh đảm trách. Bước đầu “Xưởng” này làm vũ khí bằng kéo ngay cỗ phảng chặc ra làm mã tấu, dùng ống nước làm nồng súng, làm lựu đạn bằng ve chai(44) . Chỉ trong 7 ngày đủ trang bị cho 20 du kích. Sau đó lại tiếp tục làm đạp lôi gài, đạp lôi phóng, hỏa lôi cùng với 25 súng trường “độc lập”. Có lần địch càn vào, các đồng chí nhân viên của “Xưởng” lấy vũ khí thô sơ diệt 4 tên.

Phát huy tinh thần tự lực, tự cường tại Mũi Ông Lục, huyện Cái Nước do đồng chí Tám Giang phụ trách, đồng chí góp 2 chỉ vàng để mua sắm thêm dụng cụ. Chỉ trong 1 tuần đã làm cả trăm mã tấu. Và còn sáng kiến làm trường Mát “độc lập” đầu tiên trong huyện lúc bấy giờ.

Ở Cái Giếng xã Tân Hưng, do đồng chí Nguyễn Văn Lương phụ trách lãnh đạo 5 nhân viên khắc phục khó khăn chỉ trong 30 ngày đã làm được khẩu súng tự tạo, sạc hàng trăm viên đạn và làm 50 mã tấu …

Để phục vụ kịp thời cho những ngày Đồng khởi, Công binh xưởng huyện Trần Văn Thời được thành lập cuối năm 1959, ở tại ấp Sào Lưới do đồng chí Trần Trung Vẹn phụ trách. Công trường mở ra có hàng chục Công nhân (tay thợ tốt) đã có trình độ kỹ thuật tự làm ra nhiều loại vũ khí có nhiều công nhân có trình độ kỹ thuật. Vì thế tỉnh đã rút một số đồng chí lên công tác xưởng của tỉnh.

Ngày 06/01/1960, xưởng quân giới Cà Mau được thành lập tại Dồ Ba Tỉnh, do đồng chí Phan Ngọc Sến (Mười Kỷ) phụ trách. Nhưng xưởng trực tiếp quản lý là đồng chí Nguyễn Trung Thành(45) (Ba Lò Rèn). Xưởng thành lập cơ sở vật chất chưa có gì đáng kể, nhưng các đồng chí cán bộ của xưởng đã quyết tâm, xây dựng trong rừng, hoạt động dưới dạng bí mật. Đây là xưởng làm vũ khí cấp tỉnh đầu tiên. Tuy xưởng mới thành lập, cán bộ và công nhân không có bao nhiêu, nhưng các đồng chí đã tìm mọi phương cách để xây dựng xưởng từng bước hoàn thiện.

Khi xưởng ra đời đã tiến hành sữa chữa vũ khí cho đơn vị võ trang của tỉnh là Ngô Văn Sở và Đinh Thiên Hoàng. (2 đơn vị mới thành lập của tỉnh). Xưởng lúc bấy giờ có đồng chí Lê Văn Long, Trần Văn Phú, Tạ Hữu Đức, Trần Văn Hai, Nguyễn Thành Thiện, Nguyễn Xuân Tươi, Lê Thành Thái và Nguyễn Văn Việt, Nguyễn Văn Thi, Sáu Phú(46). Đến tháng 8/1960 số lượng tăng lên trên 40 đồng chí. Tuy xưởng mới được thành lập nhưng rất quan tâm bổ sung thêm lực lượng công nhân, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Bởi vì tỉnh đã xác định xướng quân giới của tỉnh nhà là nguồn vũ khí tại chổ của tỉnh (vừa sữa chữa vũ khí, vừa làm thêm chất nổ) để cung cấp cho chiến trường của tỉnh sau ngày đồng khởi.

Quá trình sửa chữa, các đồng chí công nhân trong xưởng đã sáng kiến là không chỉ sửa chữa vũ khí mà còn làm ra vũ khí như đúc được lựu đạn, làm được số súng và vũ khí phục vụ cho lực lượng võ trang của tỉnh, huyện... Xưởng mới thành lập nên cũng dựa vào sự đóng góp của địa phương và số ban ngành của tỉnh về cơ sở vật chất và vật liệu, giữ gìn bí mật.v.v... Từ đó xưởng đã trở thành nguồn cung cấp vũ khí (sửa chữa, chế tạo) của tỉnh đã đem lại nhiều kết quả phục vụ cho quê hương đánh địch.

Trong lúc bấy giờ, sau đồng khởi năm 1960, vùng nông thôn Cà Mau ta đã dẹp tề cơ bản – giải phóng rộng các tổ chức đoàn thể bắt đầu hình thành. Đặt biệt là Mặt trận dân tộc giải phóng ra đời, tạo sự cổ vũ mạnh mẻ trong các tầng lớp nhân dân, nhất là đối với lực lượng tri thức, công nhân thành thị. Từ đó Mặt Trận giải phóng trở thành ngọn cờ tập hợp mọi tầng lớp nhân dân đấu tranh cách mạng khắp mọi nơi từ nông thôn đến thành thị. Ngọn cờ Mặt Trận lúc bấy giờ đã vẫy gọi tinh thần yêu nước của mọi ngành, mọi giới, mọi thành phần (tôn giáo, trí thức, công nhân) đồng tâm hiệp lực thực hiện nhiệm vụ kháng chiến – giải phóng dân tộc.

Để đáp ứng phong trào công nhân ở miền Nam, ngày 27 tháng 4 năm 1961 HỘI LAO ĐỘNG GIẢI PHÓNG MIỀN NAM ra đời (sau đổi tên là LIÊN HIỆP CÔNG ĐOÀN GIẢI PHÓNG MIỀN NAM). Đây là tổ chức tập hợp lực lượng lao động chân tay và trí óc đứng lên đấu tranh bảo vệ đất nước– bảo vệ dân tộc, góp phần thực hiện nhiệm vụ kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhiệm vụ của Hội đề ra: HỘI LAO ĐỘNG GIẢI PHÓNG MIỀN NAM đoàn kết chặt chẽ với toàn thể giai cấp công nhân và người lao động miền Nam, chân tay cũng như trí óc, không phân biệt trí thức, tôn giáo, không phân biệt đồng bào thiểu số. Các Hội ra đời kẻ thù theo dõi như Hội đoàn kết anh chị em công nhân lao động Hoa kiều đã bị Mỹ – Diệm áp bức, bóc lột thậm tệ. Hội kiên quyết cùng với anh chị em nông dân, các nhà tư sản và tiểu tư sản cùng các tầng lớp đồng bào khác trong Mặt Trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, đẩy mạnh cao trào đấu tranh bảo vệ và giành giật các quyền lợi kinh tế, chính trị thiết thân hằng ngày, tiến lên đánh đổ chế độ thuộc địa đẫm máu ở miền Nam, thành lập chính quyền liên minh dân tộc, hòa bình trung lập, thực hiện các quyền tự do và cải thiện đời sống cho toàn dân(47).

Sau Hội lao động giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, Mặt trận phát huy sức mạnh của lực lượng lao động trí óc và chân tay. Lúc này ta tập trung chỉ đạo ở khu vực thành thị, lấy lực lượng trí thức, công nhân là nhân viên của bộ máy địch đấu tranh lẻ tẻ (có tình, có lý) với địch, đồng thời kết hợp lực lượng đấu tranh từ nông thôn kéo ra thành thị.

Sau Đồng Khởi, bọn Mỹ – Ngụy đã từ chiến tranh đơn phương sang “chiến tranh đặc biệt” tiếp tục thống trị miền Nam Việt Nam giai đoạn mới thâm độc hơn và tàn bạo hơn, tập trung đánh mạnh các vùng giải phóng của ta. Trước tình hình đó Đảng bộ tỉnh Cà Mau đã phát động phong trào cách mạng của quần chúng và nêu nhiệm vụ trọng tâm:

Phát huy sức mạnh tổng hợp ba mũi giáp công, đánh tan rã bộ máy tề ngụy, ở cơ sở “khu trù mật”, “ấp chiến lược” của địch. Đồng thời ra sức xây dựng chính quyền và các đoàn thể cách mạng, phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục, y tế ở vùng nông thôn giải phóng, nhất là xây dựng lực lượng vũ trang, xã ấp chiến đấu, dồn sức tấn công địch đánh bại “quốc sách ấp chiến lược”(48).

Nhiệm vụ đó ở 2 khu vực thành thị và nông thôn đều tổ chức có hiệu quả. Nhưng ở tại thành thị lực lượng ta đã tổ chức liên hệ những cơ sở cách mạng bằng nhiều hình thức để kết hợp với lực lượng bên ngoài phá ấp chiến lược và động viên các công chức của địch không tham gia kế hoạch, âm mưu chống cộng và qui khu lập ấp nhằm bắt dân ta làm “hàng rào thịt” cho chúng. Từ đó phong trào cách mạng ở thành thị tuy không mạnh như ở vùng nông thôn, nhưng có chiều sâu, tìm mọi cách làm cản trở tổ chức thực hiện của địch như: đánh chất nổ, rãi truyền đơn, gián biểu ngữ chống lại chúng.v.v.. góp phần cùng với phong trào chung của tỉnh. Đặt biệt là tổ chức chở hoá chất, vật liệu làm vũ khí vào vùng nông thôn – chuyển cho các binh xưởng của ta.

Năm 1960 – 1961, hệ thống cơ sở làm vũ khí hay gọi “công trường” huyện, xã nào cũng có. Lực lượng lao động trực tiếp làm từng bước được nâng cao tay nghề. Có những đồng chí trình độ văn hóa còn thấp, thậm chí còn chưa hiểu ký hiệu của hóa chất. Nhưng quá trình làm các đồng chí học hỏi lẫn nhau và có nhiều kinh nghiệm (tay nghề nâng lên), như điều kiện đảm bảo an toàn của chất nổ hoặc lửa, độ ẩm, độ nóng.v.v… Vì thế, những công việc của các đồng chí đòi hỏi phải có trình độ và tay nghề cao, nhưng trong điều kiện chiến tranh các đồng chí cần cù, kinh nghiệm là chính. Có những đồng chí mới vào làm chưa hiểu, sau mới hiểu. Có nghĩa là người biết trước dạy cho người biết sau. Trong quá trình làm, có những sơ xuất các đồng chí bị tai nạn của chất nổ phải cưa tay, lửa xè hư mắt, thậm chí có những đồng chí hy sinh khi làm vũ khí tại “công trường”.

Sự hy sinh của anh, chị em làm trong các cơ sở (công trường) trong điều kiện bí mật hết sức vất vả, ngày đêm tiếp xúc với hóa chất, sắt, thép (điều kiện bảo hiểm thiếu). Vì thế bệnh tật xảy ra hàng ngày đối với các đồng chí trực tiếp làm không nhỏ và còn ảnh hưởng sức khỏe lâu dài. Nhưng các đồng chí lao động trong những cơ sở sản xuất vũ khí tự tạo từ tỉnh đến huyện, xã vẫn chấp nhận và vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo vũ khí cung cấp cho lực lượng ta đánh giặc kịp thời.

Công binh xưởng tỉnh, các đồng chí đã làm được đạn Lăng-xà-bom(49) là loại vũ khí tầm sát thương lớn; đạn Ssaf có tác dụng phá công sự, hầm ngầm, xuyên thép dày 10 mm(50) ; đạn Ssaf có tác dụng phá công sự vật cản, đạn đi tầm thẳng(51). Những vũ khí của xưởng chế tạo ra được thử nghiệm đánh trực tiếp các đồn bót của địch đã đem lại hiệu quả tốt. Có những đồn ta bắn thử sau đó nó hoảng sợ bỏ chạy như đồn Rạch Lùm xã Khánh Hưng, huyện Trần Văn Thời. Đặc biệt trận tập kích của ta vào cứ điểm vàm sông Ông Đốc, ta dùng Lăng-xà-bom tiêu diệt hầm ngầm của địch, diệt một đại đội bảo an và bắt sống 19 tên, thu 80 súng. Sau đó ta đánh tiểu khu An Xuyên tại thị xã Cà Mau, diệt 6 tàu sắt thuộc giang đoàn 32 của ngụy(52) . Tất cả những trận nói trên ta đều sử dụng vũ khí sáng chế (tự tạo) của xưởng quân giới tỉnh nhà làm cho quân thù khiếp sợ không đoán được vũ khí nào mà ta sử dụng công phá mạnh trong lúc mới đồng khởi. Và tiếp sau đó, ta dùng vũ khí tự tạo Lăng-xà-bom, và Ssaf đánh sụp nhiều công sự kiên cố của địch, đánh tàu ở Nổng Cạn, Vàm Giồng Ông.v.v...

Những kết quả đó đã tạo được niềm tin cho bộ đội ta đánh địch; đồng thời làm cho bọn địch kinh hoàng trước hỏa lực (vũ khí) của ta mà chúng không đoán nổi. Những chiến công dùng vũ khí tự tạo từ xưởng quân giới của tỉnh Cà Mau. Các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Rạch Giá và khu 9 cử cán bộ xuống xưởng Cà Mau học tập rút kinh nghiệm. Đây là thành tích sáng kiến của quân giới Cà Mau trong những năm sau đồng khởi, góp phần đánh bại những âm mưu đánh phá của Mỹ ngụy.

Vào những năm 1961, 1962, 1963, phong trào thi đua nhau sản xuất vũ khí tự tạo của các xã, huyện trong tỉnh rất sôi nổi. Xã nào cũng tự tạo ra những trái đạn, đạp lôi, súng “độc lập” và sửa chữa súng cũ, hoặc hư… Nguồn vật liệu phát động trong quần chúng đóng góp (hiện vật và tiền). Nhiều nơi trong tỉnh đã còn móc ráp với cơ sở ta ở vùng địch chiếm và binh sĩ tiến bộ gửi thuốc nổ, đạn dược về vùng giải phóng cơ sở sản xuất của ta, tạo nguồn nguyên vật liệu ngày thêm phong phú.

Các công binh xưởng của huyện đều có người phụ trách và số lượng cán bộ ngày thêm đông để đủ sức phục vụ, đáp ứng kịp thời cho chiến trường. Ở huyện Trần Văn Thời công binh xưởng do đồng chí Trần Trung Vẹn phụ trách, huyện Cái Nước do đồng chí Nguyễn Mai Ân (Sáu Vui) Thường vụ Huyện ủy phụ trách. Huyện Đầm Dơi công binh xưởng do đồng chí Mười Thạnh phụ trách, huyện Thới Bình công binh xưởng do đồng chí Nguyễn Văn Hiệp (Hai Bái) cùng các đồng chí khác(53). Mỗi cơ sở công binh xưởng hàng chục nhân viên và làm rất nhiều khẩu súng, thậm chí cả pháo theo như tài liệu lưu trữ của tỉnh ủy Cà Mau thì năm 1961 trong tỉnh đã làm được 956 súng các loại, trong đó có 43 khẩu “pháo” tự tạo, sửa chữa 450 súng hư, sạc 26.684 viên đạn, sản xuất 2.695 đạp lôi, 628 lựu đạn và nhiều loại vũ khí thô sơ khác(54).

Để đảm bảo có vũ khí đánh bại “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ – ngụy. Trung ương cục chỉ đạo khu 9 và tỉnh ủy Cà Mau đi tàu ra Bắc để báo cáo tình hình với Trung ương Đảng và xin vũ khí chở về chi viện cho Cà Mau – Miền Tây. Ngày 15/6/1961, Tỉnh ủy Cà Mau do đồng chí Phan Ngọc Sến (Mười Kỷ) tuyển chọn một số đồng chí thành lập đội tàu đi ra Bắc do đồng chí Bông Văn Dĩa (Hai Dĩa) phụ trách và 4 đồng chí đội phó(55) và cùng đồng đội tập trung lo mọi công việc được giao, nhưng phải tuyệt đối bí mật. Đồng thời chuẩn bị mọi giấy tờ hợp pháp (để đối phó khi gặp địch) và chuẩn bị lưới và những phương tiện như ghe đi đánh cá ngoài khơi (để tránh mắt địch). Các công việc đã chuẩn bị xong. Đồng chí Phan Ngọc Sến thay mặt tỉnh ủy xuống tận ghe dặn dò các đồng chí, đặt niềm tin ở các đồng chí. Và các đồng chí đều làm lễ tuyên thệ trước Đảng kỳ và hứa sẽ hoàn thành nhiệm vụ của Đảng giao. Đây là những đồng chí thể hiện tính tiên phong của giai cấp công nhân, sẵn sàng đi vận chuyển vũ khí về phục vụ cho chiến trường miền Nam.

Như đã định, đi lần đầu 2 chiếc. Một chiếc trọng tải 10 tấn, do đồng chí Bông Văn Dĩa phụ trách đã xuất bến tại Rạch Cá Mòi(56), còn chiếc thứ 2 xuất bến sau 2 ngày, do đồng chí Nguyễn Thanh Trần làm thuyền trưởng(57), tàu tới Huế đã bị phá nước nên trở về Trà Vinh sửa chữa một tháng sau mới về Cà Mau. Còn chiếc đồng chí Bông Văn Dĩa đã tới cửa sông Nhật Lệ, tỉnh Quãng Bình vào ngày 7/8/1961, an toàn. Đây là chuyến tàu mở đường HỒ CHÍ MINH trên biển đầu tiên của công nhân - thuỷ thủ ở Cà Mau. Đồng chí ra miền Bắc XHCN được gặp đồng chí Lê Duẩn(58) (nguyên cố Tổng Bí thư) và được đồng chí Lê Duẩn chỉ đạo chăm lo bồi dưỡng học tập cho Đoàn, và đồng chí Bông Văn Dĩa được TW Đảng giữ lại 1 năm ở tại Thủ đô Hà Nội. Đến đầu tháng 4/1962 Đoàn mới chuẩn bị vào Nam.

Ngày 11/4/1962, chiếc tàu của đồng chí Bông Văn Dĩa và đồng đội đã rời cửa sông Nhật Lệ, tỉnh Quãng Bình đi về trong Nam, tàu cập bến tại Rạch Già, xã Tân Ân huyện Duyên Hải vào ngày 18/4/1962 an toàn. Đây là chiến công xuất sắc của các đồng chí công nhân thủy thủ đã dũng cảm vượt cả nghìn cây số qua mắt lưới giặc, trở về an toàn, mở màng đường HỒ CHÍ MINH trên biển từ miền Bắc thân yêu đến Mũi Cà Mau, nơi chiến trường cực Nam của Tổ quốc. Kết quả đó còn nói lên những chiến sĩ đảng viên là đội tiên phong của giai cấp công nhân đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đi thực địa và liên lạc phục vụ cho những chuyến vận chuyển vũ khí vào Nam sau này được an toàn. Khi tìm có bến bãi đưa vũ khí vào bờ, Trung ương đồng ý cho chuyển tiếp. Vì thế ngày 24/7/1962, đồng chí Tư Mao phụ trách chiếc tàu từ cửa Bồ Đề, Tam Giang. Đồng chí Bông Văn Dĩa khởi hành vào ngày 26/7/1962 xuất phát tại Vàm Lũng, xã Tân Ân, huyện Duyên Hải (nay là Ngọc Hiển).

Ngày 30/7/1962, thuyền đồng chí Tư Mao đến cửa Việt đã bị hải quân địch bắt đưa về Đà Nẵng giam giữ, đến ngày 8/3/1963 chúng mới thả. Còn đồng chí Bông Văn Dĩa ngày 1/8/1962 đã tới tỉnh Nam Định(59). Đây là những công nhân thuỷ thủ vượt mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Quá trình thừa hành nhiệm vụ các đồng chí công nhân trên tàu vừa lo sử dụng máy móc, vừa lo tìm mọi cách lọt qua mắt giặc để đảm bảo an toàn chuyến vận chuyển chở vũ khí. Khi chiếc tàu ra Bắc các đồng chí lãnh đạo Đoàn đã gặp các đồng chí Trung ương và được các đồng chí Bộ Tổng tham mưu giao nhiệm vụ và chuẩn bị mọi công việc chu đáo cho chiếc tàu “PHƯƠNG ĐÔNG I”, ”PHƯƠNG ĐÔNG II” về đến Mũi Cà Mau, nơi chiến trường xa xôi của Tổ quốc.

Tàu Phương Đông II, do đồng chí Bông Văn Dĩa là Bí thư chi bộ trong đoàn. Đồng chí Lê Văn Một là thuyền trưởng cùng các đồng chí thuyền viên(60). Tàu đã xuất bến tại Đồ Sơn – Hải Phòng vào lúc 2h ngày 14/9/1962. Hơn một tuần lễ tàu đã vượt sóng gió và tuần tra của địch trên biển đã vận chuyển vũ khí về đến nơi an toàn vào lúc 6 giờ sáng ngày 20/9/1962 tại Vàm Lũng. Khi tàu cập bến nước rồng mất cạn. Các đồng chí vận động lực lượng dân công Rạch Gốc đã chuyền hết 30 tấn vũ khí vào bến bãi. Đó là chiến công xuất sắc của các công nhân – thuyền viên, thuyền trưởng trên tàu, đã linh hoạt sáng tạo đảm bảo đưa vũ khí đến kho cất giữ an toàn. Các đồng chí đã thể hiện tính tiên phong của giai cấp công nhân – là người Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam với tinh thần quyết tâm cao. Ngày 16/9/1062, các tàu Phương Đông I, Phương Đông II, Phương Đông III đều chở mỗi chiếc 30 tấn vũ khí cũng được cập bến tại Vàm Lũng an toàn. Đây là những chuyến tàu mở đường HỒ CHÍ MINH trên biển từ Bắc vào Nam về nơi mũi đất tận cùng Tổ quốc thân yêu. Đây là chiến công không chỉ tinh thần cách mạng của các đồng chí hậu cần – quân giới, mà chính là góp phần tạo được niềm tin về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ngay trong những ngày kháng chiến.

Các công binh xưởng của ta được thành lập và tồn tại phát triển chính là được sự đùm bọc, giúp đỡ che chở và tạo điều kiện cho các cơ sở làm vũ khí đã kịp thời cung ứng cho chiến trường tỉnh nhà. Tuy địch có tìm mọi cách để đánh phá những cơ sở làm vũ khí, nhưng mỗi cơ sở của ta đều có tổ chức phòng gian bảo mật. Những cơ sở (xưởng) của ta được tổ chức những nơi vườn rậm, những con kinh, rạch ít ai qua lại và sâu trong rừng để tránh tai mắt của địch. Từng công xưởng đều có những hầm bí mật cất giấu vũ khí và hóa chất để phòng ngừa khi địch phát hiện đánh vào không bị mất mát, hư hao vũ khí và máy móc của xưởng.

Mỗi công trường (cơ sở sản xuất vũ khí) đều có bộ phận (tổ hay tiểu đội) canh gác bảo vệ và có các bộ phận hậu cần (tiếp tế vật liệu, lương thực, thực phẩm); bộ phận máy, bộ phận làm hóa chất (thuốc nổ) … và có tổ chức Đảng (chi bộ) đoàn thể (thanh niên hay nữ công) trong xưởng để phát huy hiệu quả lao động của các đồng chí.

Năm 1964, Trung ương chỉ đạo phải củng cố và phát triển mạnh về quân giới, tạo thành hệ thống các xưởng sản xuất vũ khí để đủ sức đánh bại mở rộng chiến tranh của địch. Vì thế tỉnh đã tăng cường lãnh đạo chỉ đạo của các cấp ủy đối với quân giới nói chung, nói riêng những cơ sở (công trường) ở các địa phương. Tại công binh xưởng của tỉnh lúc bấy giờ khi đồng chí Nguyễn Trung Thành rút về xưởng của Khu, đồng chí Đoàn Thanh Vị về phụ trách làm chính trị viên – Bí thư Đảng ủy xưởng, đồng chí Tạ Hữu Đức làm giám đốc – Phó bí thư Đảng ủy xây dựng các tổ chức đoàn thể và số cán bộ công nhân của xưởng lên 250 đồng chí, có 80 Đảng viên và 105 đoàn viên(61)… đây là lực lượng cốt cán là nguồn lực cho quân giới tỉnh nhà.

Trong những năm xưởng của tỉnh xây dựng và phát triển (từ những năm Đồng Khởi) xưởng đã biết tận dụng thu chiến lợi phẩm về cải biên để cung cấp, trang bị cho ta, nhất là tận dụng những vũ khí hư hỏng hay đầu đạn lép của địch về cải biên nhằm tạo nguồn cung cấp vũ khí của ta được dồi dào. Đặc biệt là lực lượng công nhân trong xưởng đã nêu cao tinh thần trách nhiệm làm việc và luôn luôn thể hiện ý thức tổ chức kỷ luật, nâng cao sức chiến đấu, sẵn sàng tham gia mọi công việc được phân công. Có nghĩa là thể hiện bản lĩnh chính trị của người công nhân hoạt động trong kháng chiến – vùng căn cứ cách mạng.

Năm 1964 và đầu năm 1965, phong trào đấu tranh của công nhân và nhân dân lao động ở thành phố Sài Gòn đã tác động mạnh đến các tỉnh trong đó có tỉnh Cà Mau, nhất là đấu tranh chống chính sách đầu độc về văn hóa mà chúng gọi là “phủ văn hóa” trước mắt cảm giác thấy là mang tính dân tộc, thực chất là đưa nền văn hóa phương tây, ăn chơi trụy lạc làm mê hoặc tư tưởng giai cấp công nhân và lực lượng lao động chân tay và trí óc. Thí dụ như Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch “Ủy ban hành pháp Trung ương”(62) đã từng xưng “nội các chiến tranh là chính phủ của dân nghèo”. Từ “quan điểm” đó chúng truyền cho công nhân và lực lượng công chức từ Trung ương (bộ máy chính quyền Sài Gòn) đến cơ sở nhằm bảo vệ chính quyền của chúng “vì dân nghèo”. Đây là hình thức lừa mị đối với người lao động, đòi hỏi các tổ chức của ta ở thành thị phải vạch mặt chúng. Những tư tưởng quan điểm đó của chính quyền địch, từng bước các công nhân và các viên chức nhà nước của chúng đấu tranh chống lại. tại thị xã An Xuyên (nay là TP Cà Mau) chúng đã thú nhận: Có một số viên chức có hành động đồng tình những cuộc đấu tranh của Việt Cộng kéo từ nông thôn ra(63). Và chúng cho theo dõi để loại bỏ những người chúng tình nghi có liên quan những cuộc đấu tranh chống lại những chính sách của chúng.

Khi Mỹ – Ngụy chuyển sang “chiến tranh cục bộ”, chúng vừa tăng cường đưa hỏa lực vào miền Nam Việt Nam, nhưng lại tăng cường đôn quân và bắt lính (nó gọi là thực hiện quân dịch). Nếu như công nhân, con em lao động hoặc những nhân viên của chúng đúng tuổi đều chuyển quân nhân “biệt phái” hay “quân nhân trù bị”. Nhiều người sống thành thị phản ứng là chúng bắt tuổi trẻ đi lính để chết thay cho chúng; đồng thời tổ chức cho lực lượng thanh niên vào vùng giải phóng né trách từng đợt bắt lính của địch. Có những thanh niên chống lại lệnh bắt quân dịch bằng hình thức huỷ hoại thân thể như: chặt ngón tay “bóp cò” hoặc dùng thuốc phá hư một con mắt “ngắm súng”… phải nói lực lượng lao động, công nhân các nhà máy, xí nghiệp cũng phản ứng lẻ tẻ, hoặc kết hợp những cuộc đấu tranh của bà con nông thôn kéo ra tạo thành làn sóng phản đối các chính sách thực hiện chiến tranh: đánh phá, bắn giết, rãi chất độc hóa học hoặc bắt bớ những người vô tội và huy động tuổi trẻ chết thay cho Mỹ – Ngụy,.v.v…

Năm 1965, tại thị xã An Xuyên (Cà Mau bây giờ) đã diễn ra gần 20 cuộc đấu tranh lớn nhỏ, với nội dung là chống các chính sách độc tài và tăng cường quân sự bắn giết người dã man ở nông thôn và thành thị. Có những cuộc cả ngàn người trong đó có nhiều đối tượng gia đình binh sĩ, công nhân, trí thức tại thị xã đã đồng tình và viết thư gởi Quốc Hội của chính quyền Sài Gòn đòi những yêu sách chính đáng về cuộc sống (nhân sinh) và chấm dứt chiến tranh (đòi hòa bình)(64). Đặc biệt bắt công nhân làm đường bộ Cà Mau – Năm Căn, Cà Mau – Thới Bình và Cà Mau – Tắc Thủ là những con đường ta phá ngăn chặn (trở ngại) cho địch dùng xe đi càn. Lực lượng công nhân lấy cớ là sợ vũ khí Việt Cộng gài không đi làm và cố tình làm chậm trể để chúng không thực hiện kế hoạch đi đánh phá. Tháng 4/1965 có cả trăm công nhân làm đường tập trung gần cầu Phản Tề (nay là cầu Gành Hào) không chịu đi làm. Bọn chủ đòi cắt lương và kết tội anh chị em công nhân là có Việt Cộng xúi giục (kết tội anh chị em làm đường). Nhiều anh em công nhân phản đối và nhiều anh chị em bỏ ra về (vì làm con đường nguy hiểm đến tính mạng).

Năm 1966, các cuộc đấu tranh của công nhân làm đường, cầu cống, nhà máy đèn đã bắt đầu kết hợp với các nhân viên công chức ở thị xã; đặc biệt là kết hợp được các tổ chức tôn giáo, người lao động cùng với phong trào chung của nông thôn kéo ra. Có những cuộc đấu tranh lực lượng thành thị gia nhập đến gần nửa và chuẩn bị các yêu sách trao cho lực lượng nông thôn yêu cầu với tỉnh trưởng An Xuyên (Cà Mau). Và những cuộc đấu tranh không phải dừng lại ở tại tỉnh mà còn đi đến Quốc Hội của chính quyền Sài Gòn. Theo báo cáo của Tỉnh ủy năm 1966, đã có 2 cuộc nhân dân lao động “nghèo” ở Cà Mau đưa đơn đòi yêu sách đến Quốc Hội. Các tầng lớp nhân dân lao động ở thị xã, thị trấn không chịu đi học chánh trị (chủ trương của địch) là 490 người, buộc chúng bỏ tù 91 tên đã đàn áp dân, cướp giựt của cải quần chúng ở khu lao động và các phường trong thị xã. Đặc biệt đấu tranh đòi địch phải tăng lương cho 29 công nhân viên chức (bị chúng tình nghi có liên quan đến cộng sản không cho tăng lương)(65). Các hoạt động ở thành thị đã chứng minh rõ mối quan hệ giữa công – nông – trí và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh nói chung, nói riêng thị xã Cà Mau trong thời kỳ địch thực hiện “chiến tranh cục bộ”.

Để góp phần vận chuyển và đào tạo thông tin liên lạc kịp thời phục vụ cho chiến trường, Ban Giao Bưu của tỉnh đã tích cực lập các đường dây giao thông liên lạc từ tỉnh lên khu và từ tỉnh xuống huyện, xã (cơ sở). Đặc biệt là thiết lập đường dây bí mật (trong lòng địch). Có nghĩa là bộ máy có hệ thống từ trên xuống dưới, có cả phương tiện điện đài do lực lượng công nhân đảm trách, thành lập đường dây (đưa người).v.v… Đã tạo hệ thống mạch máu cho Đảng vừa ở thành thị(66), vừa ở nông thôn. Những cán bộ thông tin – liên lạc đã đóng góp rất lớn cho phong trào khán chiến của tỉnh nhà. Tổng số của ngành Bưu vận (giao bưu) đã lên tới 260 đồng chí, 67 nữ(67). Đây là những cộng nhân điện tín – liên lạc của Đảng ta trong thời kỳ kháng chiến.

Năm 1964, Trung ương cục đã mở Hội nghị bàn về công tác Công vận, do đồng chí Võ Chí Công ủy viên TW Đảng phó Bí thư TW Cục và đồng chí Trần Nam Trung, ủy viên TW Đảng, ủy viên Thường vụ TW Cục chủ trì. Để thành lập Ban Công vận miền Nam do đồng chí Bùi San phụ trách và tổ chức hệ thống Ban Công vận ở các cấp và lãnh đạo công nhân ở các đồn điền. Đồng thời phải kết hợp chặt chẽ giữa phong trào công nhân, công chức, trí thức thành thị với phong trào nông thôn bằng nhiều hình thức bí mật và công khai. Những chủ trương công vận đã nêu ra tạo thêm sức mạnh cho phát triển cách mạng ở từng địa phương, nhất là ở khu vực thành thị.

Tại Cà Mau, Ban Công vận tập trung chỉ đạo cho mọi hoạt động của các đoàn thể ở thành thị và nông thôn. Lúc này chú ý đến các giới của Mặt Trận là công – nông – trí, phát huy sức mạnh đoàn kết dưới ngọn cờ Mặt Trận để đánh Mỹ– Ngụy.

Năm 1968, các cơ sở sản xuất và các công trường phát triển trên nhiều lĩnh vực: xây dựng, bến phà, xây cất nhà cửa, nhà hàng tiệm ăn, chợ búa, nhà máy xây lúa, điện nước, các trại đóng xuồng làm cho số lượng công nhân lao động trong tỉnh tăng lên đến hàng ngàn so với trước. Từ số lượng công nhân tăng lên, tạo cho các hoạt động nghề nghiệp phát triển đa dạng, có nghĩa là trình độ nghề nghiệp của mỗi công nhân lao động cũng được nâng lên. Ý thức giác ngộ của họ cũng được tiến bộ. Vì thế họ phân biệt rõ sự lừa mị của kẻ thù (chính quyền Sài Gòn). Cho nên những cuộc đấu tranh ở thành thị (thị xã An Xuyên – Cà Mau) từng bước có chất lượng hơn và sự đoàn kết của các ngành nghề được gắn bó. Có nghĩa là những cuộc đấu tranh mang tính giai cấp và dân tộc, đòi dân sinh dân chủ cao hơn. Như cuộc đấu tranh chống đuổi nhà ở bờ sông Gành Hào, giải tỏa khu vực quân sự (trung đoàn 32) và một số khu vực khác đã tác động đến đời sống nhân dân lao động.

Từ phong trào đấu tranh của công nhân lao động kéo theo các cuộc đấu tranh chống bắt lính của học sinh và phụ huynh lẻ tẻ trong thị xã hoà nhập với những cuộc đấu tranh của nông dân, nông thôn kéo ra.

Khi địch thực hiện chiến tranh cục bộ thì chúng dùng hỏa lực và các binh chủng tinh nhụê của Mỹ đánh phá tàn xác đồng bào ta, nhất vùng là giải phóng, ở U Minh, Cái Nước, Đầm Dơi, Thới Bình, Trần Văn Thời, Duyên Hải (Ngọc Hiển bây giờ) và các khu vực trọng yếu ven thị xã; làm cho mật độ chiến tranh ở tỉnh nhà ngày càng cao hơn. Từ đó nhân dân vùng địch chiếm (thành thị) càng nhận rõ bản chất của cuộc chiến tranh do Mỹ gây ra đã làm đau thương tan tốc cho người dân vô tội. Những hành động đó hằng ngày đã diễn ra trước mắt của công nhân và người lao động, lực lượng trí thức, đồng bào đô thị. Cho nên họ không chấp nhận những tuyên bố hoặc lời khuyên dưới dạng lừa mị của bọn tay sai nguỵ quân, nguỵ quyền ở Cà Mau. Vì thế họ sẵn sàng ủng hộ cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân ta, cho nên đã gửi tiền, của đóng góp cho kháng chiến, thậm chí đưa con cháu mình vào vùng giải phóng công tác, hoặc vào bộ đội trực tiếp đánh lại bọn Mỹ – ngụy

II. GÓP PHẦN ĐÁNH BẠI ÂM MƯU CỦA ĐỊCH, TIẾN TỚI GIẢI PHÓNG HOÀN TOÀN QUÊ HƯƠNG (1969 – 1975)

Sau khi Mỹ – Nguỵ thất bại chiến tranh cục bộ vào năm 1968, chúng thực hiện cuộc chiến tranh xâm lược mới là “Việt Nam hóa chiến tranh”. Bằng hình thức là rút quân Mỹ và chư hầu, tăng cường quân ngụy và hỏa lực để tiếp sức chính quyền ngụy quân, ngụy quyền, hồng cứu giản chính quyền Sài Gòn.

Tại Cà Mau, chúng tăng cường đôn quân bắt lính, tổ chức những cuộc càn lớn đánh vào vùng sâu – vùng giải phóng của ta. Đặc biệt là chúng tăng cường công tác quản lý công nhân viên chức thành thị, nhất là những đối tượng địch quản lý (trả lương). Tiếp tục cho bọn mật thám, an ninh quân đội theo dõi những hành vi hoạt động của công chức; bắt đầu quản lý nhân viên nghiêm ngặt hơn; các công sở nghiêm cấm người lạ mặt vào. Có nghĩa là tăng cường lực lượng phòng thủ về quân sự và cả về chính trị – tư tưởng.

Đối với các nghiệp đoàn hoạt động ở thị xã bị nghi ngờ và phát hiện một số hoạt động chúng cho là có ảnh hưởng đến chế độ “Việt Nam cộng hòa” cho nên cấm các hoạt động, dù là có quan hệ đến Tổng Liên đoàn lao động của Trần Quốc Bửu. Lúc bấy giờ tên Phi Long cầm đầu đại diện cho Tổng Liên đoàn lao động của tỉnh An Xuyên (Cà Mau).

Trước tình hình đó, ta chủ trương tiếp tục móc ráp các tổ chức của ta chưa bị lộ bằng cách hợp đơn tuyến lãnh đạo – châm ngòi pháo cho các nghiệp đoàn đấu tranh với địch có lý, có tình và khéo léo để làm phân tán lực lượng, tổ chức địch.

Khi được tin Bác Hồ qua đời, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, ta thương tiếc. Ở vùng giải phóng, vùng ven và vùng thành thị ta cũng tổ chức lễ tang Bác theo điều kiện của mình. Ở vùng địch kềm, các cơ sở ta cũng vận động quần chúng và nơi chùa chiền tổ chức dưới dạng “Cầu Xiêu” cúng kiến... Có những nơi số lính ngụy cũng phớt lờ (như không hay biết để bà con ta tổ chức). Ai ai cũng tỏ thái độ thương tiếc Người.

Ở các công binh xưởng trong vùng giải phóng biến đau thương thành hành động cách mạng; phấn đấu thi đua nhau sản xuất được nhiều vũ khí phục vụ kịp thời cho chiến trường công binh xưởng của tỉnh, huyện công nhân làm việc cả ngày đêm để cung cấp vũ khí cho phía trước, thậm chí cử lực lượng công nhân kỷ thuật đưa ra đánh tàu trực tiếp cũng nhằm thử vũ khí để phát huy tiếp những kết quả đã đạt được. Đồng thời các đồng chí tích cực tham gia các mặt công tác để đưa thành tích của công binh xưởng phát triển. Như anh Năm Công, anh Năm Sơn, chị Út Bạch ở Thới Bình, mặc dù quân địch canh gác nghiêm ngặt, nhung các anh, chị vẫn tích cực mua nguyên liệu và hóa chất, thuốc trị bệnh chuyển về cho xưởng quân giới Cà Mau và quân y tỉnh(68).

Xưởng quân giới Cà Mau cũng được sắp xếp lại đồng chí Trần Văn Phú thay đồng chí Tạ Hữu Đức là Giám đốc, đồng thời điều chỉnh cán bộ, sắp xếp lại các phân xưởng nguội và tiện, phân xưởng rờ sạc, lò đốt than, phân xưởng hóa chất, bộ phận tiếp liệu, bộ phận sản xuất, bộ phận văn phòng. Từng phân xưởng bố trí xa nhau, nhưng vẫn theo hệ thống sản xuất, đảm bảo kỷ thuật, tránh thiệt hại do địch đánh phá.

Yêu cầu sản xuất vũ khí rất khẩn trương, nhưng máy móc cũ kỹ không đảm bảo, xưởng cần thay đổi khung tiện và máy kéo mới. Việc mua sấm phương tiện và vận chuyển về xưởng lúc này rất khó khăn, phải qua nhiều đồn bót của địch kiểm soát. Sáng kiến của đồng chí Hồng Kim Cân (Ba Nam) Trưởng ban tiếp liệu là ta cho người hợp pháp đến liên hệ hợp đồng chở cát cho bọn địch mới đến đóng đồn Cây Tàng. Bọn địch đang xây đồn rất cần vật liệu nên chịu ký hợp đồng với ta. Ta tổ chức đoàn ghe chở cát, ở dưới chở máy qua các đồn bót ta trình giấy tờ hợp đồng nên việc điều máy và khung tiện về rất dễ dàng. Ta bố trí đoàn ghe đến đồn Cây Tàng, lúc ban đêm để địch không phát hiện. Khi đến đồn, ta tranh thủ địch cho lên cát ngay, lý do là vì ghe bị phá nước, địch đồng ý. Khi lên gần hết cát, ta bí mật rút lù nước tràn vào tạo lý hợp pháp để ghe được bung ra thả trôi theo dòng nước. Ban tiếp liệu bố trí người và phương tiện vận chuyển, đoàn ghe đến điểm hẹn, ta chuyển máy và khung tiện về xưởng. Từ đó xưởng Cà Mau đã có khung tiện và máy kéo mới. Những người thợ phải làm việc suốt ngày, đêm mới đảm bảo kế hoạch và chỉ tiêu trên giao. Từng bộ phận vừa sản xuất vừa bố trí đánh địch bảo vệ xưởng, có lúc địch đánh gần anh em phải gỡ từng bộ phận máy đem cất giấu, có những chiếc máy nặng cả tấn. Địch rút đi ta đưa máy lên tiếp tục sản xuất, có lúc chỉ hoạt động sản xuất ban đêm, ngày phải chiến đấu với địch. Trận địch dùng bom 7 tấn dọn bãi trực thăng đổ quân gần xưởng, đồng chí Phan Văn Diệp chỉ huy lực lượng bảo vệ kiên quyết đánh địch không cho địch đến xưởng, trong lúc đó xưởng còn giữ 20 tấn vũ khí của quân khu gởi. Ban giám đốc xưởng phân công các đồng chí Hai Sương, Hùng Út, Hùng Anh, và lực lượng xưởng nhanh chóng dời hết số vũ khí trong lúc trời tối về điểm mới an toàn. Trận này ta diệt và bắn bị thương 35 tên địch, bẻ gẫy cuộc càn.

Ngày 27/01/1973, tại Paris, Mỹ ngụy buộc phải cùng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam trên cơ sở “Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng nước Việt Nam như hiệp định Giơ-neo-vơ năm 1954 đã công nhận(69).

Nhân Hiệp định Paris, nhân dân cả vùng giải phóng và vùng đô thị bà con rất phấn khởi, nhiều cuộc hội họp, tụ tập bà con đã bàn xôn xao, muốn cho bọn Mỹ – Ngụy phải thi hành khi Hiệp định khi có hiệu lực. Nhưng kẻ thù lật lọng, ngoan cố tiếp tục thực hiện chiến tranh ở Việt Nam. Nhiều bà con sống trong vùng địch quản lý bất bình và cả binh lính địch, công nhân viên chức bộ máy chúng cũng không hài lòng trước sự lật lọng không tuân thủ Hiệp định. Từ đó công nhân viên chức lại hiểu rõ bản chất của kẻ thù.

Phong trào đấu tranh lan rộng và sự bàn tán ở đô thị và vùng ven sôi động; cờ mặt trân giải phóng được cắm sát đồn giặc, trong ấp chiến lược cán bộ công chức trong bộ máy địch lúc bấy giờ đã có tư tưởng tiến bộ ngả về cách mạng phản đối ngụy quân, ngụy quyền tiếp tục làm theo ý đồ của Mỹ – thực hiện chiến tranh đưa quân đi càn quét, bắn phá nhân dân ta.

Để chống lại âm mưu phá Hiệp định Pari, đồng thời thực hiện chủ trương của tỉnh ủy tập trung đánh bại những âm mưu thâm độc của Mỹ- ngụy. Các công binh xưởng tỉnh, huyện lực lượng công nhân quyết tâm xây dựng thực lực cách mạng và tăng cường vũ khí để đánh địch trên chiến trường tỉnh nhà. Vì thế các công trường đã sẵn sàng cung ứng vũ khí kịp thời để đánh thắng địch.

Công trường các huyện cũng khẩn trương vừa sưu tầm và vừa sản xuất vũ khí, anh Dương Văn Thà, cán bộ sưu tầm huyện Trần Văn Thời bất chấp hiểm nguy, nơi nào có bom, pháo lép là anh có mặt, miễn sao anh lấy được nhiều bom, đạn lép là anh vui mừng. Anh Thà vừa sưu tầm cho huyện vừa góp phần cho xưởng tỉnh. Quá trình sưu tầm anh lấy được 50 quả bom từ 200 đến 500 kilôgam, 2.000 đầu đạn pháo, 70 quả bom bươm bướm. Với thành tích trên, anh Dương Văn Thà được Hội đồng Nhà nước tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là người công nhân của xưởng đã thể hiện tinh thần cách mạng, vượt qua mọi khó khăn lập nhiều thành tích xuất sắc.

Trong toàn tỉnh có 33 công trường xã. Tiêu biểu là công trường xã Thới Bình, có 3 đồng chí Nguyễn Văn An, Huỳnh Văn Hưởng, Nguyễn Văn Hải ba anh đã cải tiến 50 đầu đạn pháo 105 mm trang bị cho du kích đánh đồn. Đặc biệt công trường xã Lương Thế Trân sản xuất được đạn Lăn – xà – bom.

Phát huy thành tích đánh Mỹ của hai miền Nam-Bắc; đặc biệt là tập trung đánh địch ở đồng bằng sông Cửu Long. Nghị quyết đã đề ra nhiệm vụ trước mắt của quân và dân là: “Mở cuộc vận động lớn trong giai đoạn mới, tiếp tục động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trên cả ba vùng, đẩy mạnh các cuộc đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận và pháp lý, tấn công liên tục đòi địch phải thi hành Hiệp định trước hết là thực hiện việc ngừng bắn, lập lại hòa bình, thực hiện các quyền tự do dân chủ cho nhân dân. Đồng thời đẩy lùi từng bước để giữ vững hòa bình, không ngừng đưa phong trào cách mạng tiến lên sẵn sàng đánh bại những hành động liều lĩnh của nếu địch(70).

Thực hiện chỉ thị của Khu, các công binh xưởng tiếp tục nêu cao hiệu quả, cung cấp kịp thời vũ khí cho lực lượng võ trang để tấn công địch bảo vệ vùng nông thôn giải phóng. Xưởng quân giới Cà Mau từ cán bộ đến tận chiến sĩ tích cực sản xuất, làm suốt cả ngày lẫn đêm với khẩu hiệu “Tự lực giải phóng tỉnh”. Một ngày bằng một tháng sản xuất bình thường. Chỉ tính từ tháng 12/1974 đến tháng 04/1975, xưởngh Cà Mau sản xuất 1.686 quả Lăn – xà – bom, 1.495 bệ phóng đầu đạn các loại, 1.880 quả thủ pháo, lựu đạn, 336 quả mìn các loại. Sản xuất 3 khẩu Lăn-xà-bom một khẩu cối 100 mm.

Khi giải phóng miền Nam 30/4/1975, thống nhất đất nước. Công nhân và nhân dân lao động tỉnh nhà góp phần tích cực cùng các đoàn thể chính quyền (quân quản) giữ trật tự an ninh và bảo quản các kho tàng, công xưởng, xí nghiệp ta quản lý. Đặc biệt là đảm bảo điện, nước và dọn dẹp vệ sinh các khu lao động; phát huy nghề nghiệp công nhân và các nhân viên phụ trách ở các nhà máy, xí nghiệp ta mới tiếp quản. Thực hiện chính sách của mặt trận và đảm bảo quyền lợi kinh tế cho các nhân viên ta “lưu dụng” để tiếp tục làm việc phục vụ cho lợi ích xã hội trong những ngày ta mới tiếp quản còn nhiều khó khăn.

Tóm lại: Nhân dân lao động và công tác Công đoàn(71) tỉnh Cà Mau trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã khắc phục những khó khăn đi theo ngọn cờ tiên phong của giai cấp công nhân là Đảng cộng sản Việt Nam; đặc biệt là Công Vận (Công đoàn) đã trở thành hệ thống chính trị của Đảng, Nhà nước ta; góp phần tích cực trong công cuộc giải phóng dân tộc – hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân.

Ở mỗi giai đoạn lịch sử, nhân dân lao động và công tác Công đoàn của tỉnh nhà đã phát huy trutyền thống cách mạng; đoàn kết chặt chẽ với các tầng lớp nhân dân; đóng góp sức người, của cho kháng chiến. đặc biệt là lực lượng công nhân lao động trong các binh xưởng sản xuất vũ khí từ cơ sở đến tỉnh đã đem lại những hiệu quả to lớn, đó là cung cấp kịp thời vũ khí cho chiến trường tại tỉnh để đánh địch và thắng địch. Đồng thời đã biểu hiện nhiều tấm gương tiêu biểu trong chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong lao động sản xuất và chiến đấu bảo vệ kho tàng, công xưởng đến hơi thở cuối cùng.

Trong những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, công nhân của tỉnh không có bao nhiêu, nhưng lực lượng lao động (nghề nghiệp, thợ thủ công, nhân viên công xưởng, xí nghiệp...) đã chiến đấu rèn luyện đạo đức, phẩm chất, phát huy được ý chí cách mạng, đóng góp sức mình cho kháng chiến, từng bước tạo được tính tiên phong của giai cấp công nhân trong hành động cách mạng.

Sau khi Cà Mau được giải phóng công nhân và nhân dân lao động của tỉnh nhà cùng cả nước bắt tay vào công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quê hương – đất nước. Đây là thời kỳ vai trò của giai cấp công nhân và nhân dân lao động góp phần tích cực cho công cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

(1)Tỉnh Bạc Liêu được thành lập 18/12/1882.
(2)Đồng chí đã bị bọn mật thám bắt và tra tấn anh đến chết vào năm 1931.
(3)Hồ Chí Minh – Vì độc lập, vì chủ nghĩa xã hội. NXB Sự thật – trang 27.
(4)Giai cấp công nhân Việt Nam, trang 120.
(5)Nhà số 43 đường Phạm Văn Ký, TP Cà Mau.
(6) Gần dưới dốc cầu Quây (ngang Sở Thương mại).
(7)28/7/1929 – Công hội đỏ Bắc Kỳ ra đời.
(8)Là nơi tổ chức từng đợt để khai thác cây.
(9)“Lời kêu gọi” của đồng chí Nguyễn Ái Quốc – Nội san nghiên cứu lịch sử Đảng số 2, tháng 5, năm 1971.
(10)Theo tài liệu Pháp – bản tin số 4162, ngày 12/12/1932.
(11) Khu vực làm muối thuộc tỉnh Bạc Liêu.
(12)Cập bến bờ Vĩnh Châu (lúc bấy giờ thuộc tỉnh Bạc Liêu).
(13)Bản tin số 3398-S, ngày 10/10/1934.
(14)Trích lịch sử Đảng bộ tỉnh Minh Hải, trang 52. NXB Mũi Cà Mau
(15)Quận ủy Cà Mau thành lập 7/1937 ranh giới và diện tích như tỉnh Cà Mau hiện nay.
(16)Văn kiện Đảng 1936 – 1939.
(17)Trích lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn VN – trang 164.
(18)Trước là Hội công nhân phản đế.
(19)Cụm đảo Hòn Khoai gồm co : Hòn Tượng, Hòn Sao, Hòn Đồi Mồi, Hòn Trợ và Hòn Khoai.
(20)Khi khởi nghĩa tên phó đảo đi trị bệnh ở Sài Gòn.
(21)Trích lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam. NXB LĐ trang 169.
(22)Trích Nghị quyết tháng 5/1941
(23)Thị xã Bạc Liêu thời kỳ chống Pháp là tỉnh lỵ của tỉnh, Cà Mau là thị trấn.
(24)Hồ Chí Minh tuyển tập, tập I trang 485.
(25) Trích đánh giá cuốn “Lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam “. NXB LĐ, trang 218.
(26) Danh sách BCH Hội Công nhân cứu quốc chưa xác định được, còn tiếp tục sưu tầm.
(27) Cả tỉnh Bạc Liêu (nay là Bạc Liêu – Cà Mau) đóng góp gần 20 Kg vàng cho kháng chiến.
(28) Bà Ngô Thị Huệ sau này là phu nhân của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
(29) Lúc bấy giờ tạm gọi là Công Vận.
(30)Năm 1946, 1947, địch đánh mạnh ở một số tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng, Vĩnh Long chạy xuống rừng U Minh tạm lánh thời gian, được nhân dân trong tỉnh che chở, đùm bọc.
(31)Tư liệu này còn đang thẩm định thêm.
(32)Chưa có danh sách.
(33)Tổ chức này chúng lập cuối năm 1949 để lừa mị công nhân.
(34)Trích lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam trong kháng chiến, trang 103 và 104.
(35)Đại hội khai mạc ngày 01 – 15/01/1950, có 200 đại biểu đại diện 30 vạn đoàn viên Công đoàn ở 1.012 cơ sở trong cả nước đã về dự và bầu BCH 21 đồng chí.
(36)Trích thư Chủ tịch gởi Đại hội CĐVN lần thứ nhất, trong cuốn phong trào công nhân Việt Nam.
(37)Khi nấu cơm hớt nấm gạo bỏ vào hủ, khi đầy, Ban tổ chức đến nhận, gởi cho bộ đội.
(38)Xưởng đóng tại vườn ông Lưu Văn Sến, Lưu Văn Tử ở Cái Giếng.
(39)Trích hậu cần nhân dân tỉnh Minh Hải, trang 42.
(40)Trích công nhân Sài Gòn – Chợ Lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, NXB Lao Động, trang 266.
(41)Là những đồng chí được phân công hoạt động bí mật ở thành thị.
(42) Xem tin Việt Tấn xã ngày 17/1/1973 Cục lưu trữ tại TP Hồ Chí Minh
(43)Trích Công nhân Sài Gòn – Chợ Lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, NXB Lao Động, trang 294.
(44) Lấy ve chai đưa thuốc nổ vào và làm ngòi đi đạp nổ, hoặc ném cũng nổ.
(45)Đ/c sau này được nhà nước ta tuyên dương anh hùng lực lượng võ trang nhân dân.
(46)Theo tư liệu của sách “Hậu cần Minh Hải – 30 năm chiến tranh).
(47)Trích sách: Mặt Trận giài phóng dân tộc miền Nam – NXB Sự Thật Hà Nội năm 1960, trang71.
(48)Trích lịch sử Đảng bộ Minh Hải, NXB Mũi Cà Mau, trang 214.
(49)Trái đầu bằng gang, nặng 12 kg, tầm đạn đi 350 mét.
(50)Trái đầu đạn bằng thau, trọng lượng 12,5 kg, tầm đạn đi 350 mét.
(51)Trái đầu đạn bằng gang, nặng 7 kg, tầm đạn đi 700 mét.
(52)Tất cả hai trận ta diệt trong tháng 4 năm 1961.
(53) Dựa theo số liệu của cuốn “Hậu cần nhân dân Minh Hải”. Tr 93-94.
(54)Dựa theo số liệu của cuốn “Hậu cần nhân dân dân Minh Hải”. Tr 93-94.
(55)Đ/c Lâm Quang Sinh (Mười Thượng), Nguyễn Văn Đạo (Bảy Đường), Nguyễn Thanh Trần (Tư Lưới) và Tư Báo

(56) Tàu xuất bến 01/8/1961 là tàu của Khu.
(57)Tàu xuất bến 3/8/1961 là tàu của Tỉnh ủy Cà Mau.
(58)Đ/c Lê Duẩn gặp Đ/c Bông Văn Dĩa ngày 11/8/1961.
(59)Theo tài liệu sách Hậu cần nhân dân tỉnh Minh Hải.
(60)Đ/c Huỳnh Văn Sao, Nguyễn Văn Bé, Võ Tấn Thành, Nguyễn Văn Khương, Ngô Văn Tấn, Ngô Văn Nhung và Sáu Rô.
(61)Theo tư liệu cách hậu cần nhân dân Minh Hải.
(62) Kỳ làm năm 1966 – 1967.
(63)Theo tư liệu báo cáo hằng tuần của tỉnh trưởng An Xuyên 1965.
(64)Theo số liệu báo cáo Tỉnh ủy năm 1965 là có 2.032 người gia đình binh sĩ, công nhân, trí thức tham gia biểu tình.
(65)Trích báo cáo Tỉnh ủy năm 1966, trang 4.
(66)Ở thành thị tổ chức đường dây bí mật.
(67)Theo tư liệu sách Bưu Điện tỉnh Cà Mau năm 1965.
(68)Trích Hậu Cần Minh Hải – 30 năm đấu tranh, trang 168.
(69)Điều 1 và 4 của Hiệp định Paris.
(70)Nghị quyết tình hình nhiệm vụ của Đảnh bộ Tây Nam Bộ trong giai đoạn mới.
(71) Công đoàn chống Pháp Cà Mau thuộc tỉnh Bạc Liêu.

BAN BIÊN TẬP
Trưởng Ban: Lưu Thị Trúc Ly - Phó Chủ tịch Liên đoàn Lao động tỉnh.
Phó Ban: Huỳnh Văn Đậm - UV.BTV, Trưởng Ban Tuyên giáo – Nữ công.
Phó Ban: Trương Đắc Lil - UV.BCH, Phó trưởng Ban CSPL&QHLĐ.
Địa chỉ: Số 07, Đường Lưu Tấn Tài - Phường 5 - TP. Cà Mau - Tỉnh Cà Mau; ĐT: (0290) 3 831431 - Fax: 3 835 198.
Email: bbtcongdoancm@gmail.com; Website: http://www.congdoancamau.org.vn.
Copyright © Bản quyền thuộc về Liên đoàn Lao động tỉnh Cà Mau.
Quản trị hệ thống